Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn đất nước, được toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện một cách chủ động và sáng tạo. Từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, Đảng ta đã liên tục đề ra những nhiệm vụ và giải pháp chiến lược cho phát triển KT-XH ở Việt Nam kể từ Đại hội VI (năm 1986) cho đến các Đại hội VII, VIII, IX và X của Đảng, nhằm tiến tới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
ĐTPT luôn được xem là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển KT-XH của đất nước. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, nhu cầu cho ĐTPT ngày càng lớn, bên cạnh việc huy động vốn, bài toán quản lý chi ĐTPT từ NSNN đã và đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ bước vào thế kỹ XXI, thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và tiến đến nền kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [30, tr.23].
Muốn phát triển nhanh không còn con đường nào khác là phải gia tăng đầu tư. Quản lý chi ĐTPT một cách hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, gia tăng xuất khẩu, tăng tích luỹ của nền kinh tế.
Bằng định hướng và chính sách phát triển vùng miền, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định:
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung cần chú trọng tăng cường các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống thiên tai; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác cảng biển, vận tải biển, công nghiệp chế biến xuất khẩu, lọc hoá dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, du lịch, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, trồng cây công nghiệp; phát triển có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển gắn với các cảng biển, các đô thị mới và các tuyến hành lang Đông- Tây [30, tr.225-226].
Quảng Nam là địa bàn nằm giữa hai vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, do vậy chủ trương của Đảng về việc tập trung và ưu tiên đầu tư cho khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó có Quảng Nam, nhằm tạo nên sự phát triển cân đối của đất nước.
Trong những năm gần đây, Quảng Nam đã huy động và đưa vào sử dụng một lượng vốn tương đối lớn cho ĐTPT. Riêng trong giai đoạn 2001-2005, tổng VĐT toàn tỉnh khoảng trên 13.200 tỷ đồng, chiếm 40% GDP, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm xấp xỉ 32%. Trong đó vốn NSNN chiếm 44,4% (riêng NSNN tỉnh 29%), vốn tín dụng chiếm 7,2%, vốn doanh nghiệp 29,1%, vốn FDI 4,3%, các nguồn vốn khác 15% [29].
Tuy nhiên, từ một điểm xuất phát thấp, nguồn thu NSNN hạn hẹp, quy mô VĐT không lớn, cơ chế quản lý đầu tư thay đổi liên tục., bên cạnh những giải pháp về huy động, thu hút VĐT, vấn đề hoàn thiện công tác quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam cần phải được quan tâm hơn, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển một cách bền vững. Ở góc độ quản lý, việc nâng cao chất lượng quản lý chi ĐTPT có tầm quan trọng và khả thi hơn là các biện pháp tăng vốn. Đó là lý do thúc đẩy tôi chọn đề tài: " Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam " làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
120 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn đất nước, được toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện một cách chủ động và sáng tạo. Từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, Đảng ta đã liên tục đề ra những nhiệm vụ và giải pháp chiến lược cho phát triển KT-XH ở Việt Nam kể từ Đại hội VI (năm 1986) cho đến các Đại hội VII, VIII, IX và X của Đảng, nhằm tiến tới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
ĐTPT luôn được xem là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển KT-XH của đất nước. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, nhu cầu cho ĐTPT ngày càng lớn, bên cạnh việc huy động vốn, bài toán quản lý chi ĐTPT từ NSNN đã và đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ bước vào thế kỹ XXI, thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và tiến đến nền kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [30, tr.23].
Muốn phát triển nhanh không còn con đường nào khác là phải gia tăng đầu tư. Quản lý chi ĐTPT một cách hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, gia tăng xuất khẩu, tăng tích luỹ của nền kinh tế...
Bằng định hướng và chính sách phát triển vùng miền, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định:
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung cần chú trọng tăng cường các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống thiên tai; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác cảng biển, vận tải biển, công nghiệp chế biến xuất khẩu, lọc hoá dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, du lịch, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, trồng cây công nghiệp; phát triển có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển gắn với các cảng biển, các đô thị mới và các tuyến hành lang Đông- Tây [30, tr.225-226].
Quảng Nam là địa bàn nằm giữa hai vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, do vậy chủ trương của Đảng về việc tập trung và ưu tiên đầu tư cho khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó có Quảng Nam, nhằm tạo nên sự phát triển cân đối của đất nước...
Trong những năm gần đây, Quảng Nam đã huy động và đưa vào sử dụng một lượng vốn tương đối lớn cho ĐTPT. Riêng trong giai đoạn 2001-2005, tổng VĐT toàn tỉnh khoảng trên 13.200 tỷ đồng, chiếm 40% GDP, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm xấp xỉ 32%. Trong đó vốn NSNN chiếm 44,4% (riêng NSNN tỉnh 29%), vốn tín dụng chiếm 7,2%, vốn doanh nghiệp 29,1%, vốn FDI 4,3%, các nguồn vốn khác 15% [29].
Tuy nhiên, từ một điểm xuất phát thấp, nguồn thu NSNN hạn hẹp, quy mô VĐT không lớn, cơ chế quản lý đầu tư thay đổi liên tục..., bên cạnh những giải pháp về huy động, thu hút VĐT, vấn đề hoàn thiện công tác quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam cần phải được quan tâm hơn, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển một cách bền vững... ở góc độ quản lý, việc nâng cao chất lượng quản lý chi ĐTPT có tầm quan trọng và khả thi hơn là các biện pháp tăng vốn. Đó là lý do thúc đẩy tôi chọn đề tài: " Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phỏt triển từ ngõn sỏch nhà nước tỉnh Quảng Nam " làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quản lý chi ĐTPT từ NSNN nói chung đã được một số nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, đề tài quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam chưa được quan tâm nhiều. Năm 1998, nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành đề tài khoa học "Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá miền Trung" do TS Phạm Hảo chủ biên; Luận án "Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Nguyễn Đẩu. Nhìn chung, chưa có tác phẩm luận giải một cách đầy đủ và có hệ thống quá trình quản lý, đề xuất các giải pháp mang tính khoa học nhằm hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN riêng cho tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào công tác quản lý ngân sách của tỉnh nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN; Phản ánh và đánh giá đúng thực trạng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN, kinh nghiệm của một số địa phương trong nước và nước ngoài.
- Phân tích thực trạng của chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Từ đó, rút ra nguyên nhân của những thành công và hạn chế.
- Đề xuất một hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam.
Do nội dung chi ĐTPT từ NSNN tỉnh chủ yếu là chi xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nên luận văn dành sự quan tâm nhiều hơn đến quá trình chi ĐTXD từ NSNN tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ 2001-2005
- Theo quy định của Luật NSNN, chi ĐTPT bao gồm chi ĐTXD; hỗ trợ vốn doanh nghiệp nhà nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Thực tế tại Quảng Nam, trong giai đoạn 2001-2005, chi ĐTXD chiếm 97,2% trong tổng chi ĐTPT từ NSNN tỉnh. Do đó, để nghiên cứu quản lý chi ĐTPT, nội dung luận văn tập trung nghiên cứu quản lý chi ĐTXD từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, có tham khảo thêm một số kinh nghiệm của các địa phương trong nước và nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn, trước hết dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích- tổng hợp, so sánh, đối chứng, mô hình hóa, kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát thực tiễn để thực hiện đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý chi ĐTPT từ NSNN
- Phân tích thực trạng quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2001-2005
- Đề xuất một số giải pháp quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2006-2010
Hy vọng, kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu tham khảo, vận dụng hoàn thiện quá trình quản lý chi ĐTPT từ NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1: Một số nội dung cơ bản về chi và quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 1
Một số nội dung cơ bản về chi và quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Ngân sách nhà nước
NSNN là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá- tiền tệ trong những phương thức sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá- tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của NSNN.
NSNN luôn gắn liền với Nhà nước, nó được dùng để chỉ các khoản thu nhập và chi tiêu của Nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, còn quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện. Xét về hình thức, NSNN là một bản dự toán thu và chi do Chính phủ lập ra, đệ trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện.
Xét về thực thể, NSNN bao gồm những nguồn thu, khoản chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ- quỹ NSNN, và các khoản chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy. Thu và chi quỹ này có quan hệ ràng buộc với nhau gọi là cân đối. Cân đối thu chi NSNN là một cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường và được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Vì lẽ đó, có thể khẳng định NSNN là một quỹ tiền tệ lớn của Nhà nước.
Xét về các quan hệ kinh tế, các nguồn thu, khoản chi trong NSNN đều phản ánh những quan hệ kinh tế nhất định giữa Nhà nước với đối tượng nộp, giữa Nhà nước với đối tượng thụ hưởng.
Vì thế, "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước" [48, tr.8].
NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
1.1.1.2. Chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
Chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Vì thế, chi NSNN là những việc cụ thể, không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước.
"Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật" [48, tr.8-9].
Do NSNN gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, nên chi NSNN cấp tỉnh thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, gồm: Chi ĐTPT; Chi thường xuyên; Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư; Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh; Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
1.1.1.3. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh
Chi ĐTPT từ NSNN tỉnh là các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại địa phương. Chi ĐTPT là các khoản chi mang tính chất chi tích luỹ như chi đầu tư CSHT, chi hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, chủ yếu là ĐTXD các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH ít hoặc không có khả năng thu hồi vốn.
Trong nhiệm vụ chi của NSNN tỉnh Quảng Nam, chi ĐTPT là một khoản chi chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi hàng năm của NSNN tỉnh (Phụ lục 01).
1.1.2. Đặc điểm của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
- Chi ĐTPT từ NSNN gắn liền với định hướng phát triển KT-XH của đất nước, của địa phương theo từng thời kỳ
Chi NSNN phải bảo đảm các hoạt động của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Nhưng nguồn lực NSNN có hạn, buộc Nhà nước phải lựa chọn phạm vi chi, tập trung nguồn tài chính vào chiến lược, định hướng phát triển KT-XH, để giải quyết những vấn đề lớn của đất nước, của địa phương trong từng thời kỳ cụ thể.
- Chi ĐTPT từ NSNN gắn liền với quyền lực của Nhà nước
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi và phân bổ nguồn VĐT cho các mục tiêu quan trọng, bởi vì Quốc hội là cơ quan quyết định nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi ĐTPT từ NSNN.
Đối với NSNN cấp tỉnh, HĐND tỉnh quyết định dự toán chi NSNN tỉnh, chi tiết theo các lĩnh vực chi ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính; quyết định phân bổ; quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách. UBND tỉnh lập, phân bổ, quyết định và tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch chi ĐTPT theo từng lĩnh vực và địa bàn.
- Hiệu quả chi ĐTPT khác với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nó được xem xét trên tầm vĩ mô và là hiệu quả kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... dựa trên cơ sở hoàn thành các mục tiêu ĐTPT từ NSNN.
- Chi ĐTPT từ NSNN chủ yếu ĐTXD các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH không có khả năng thu hồi vốn. Chính vì vậy, chi ĐTPT từ NSNN là các khoản chi không hoàn trả trực tiếp. Đặc điểm này, giúp phân biệt với các khoản tín dụng đầu tư, VĐT của doanh nghiệp, tư nhân...
- Chi ĐTPT gắn với hoạt động ĐT&XD, chính vì thế chi ĐTPT có đặc điểm quy mô quản lý lớn, thời gian quản lý dài, tính rủi ro cao, sản phẩm đầu tư đơn chiếc, phụ thuộc đặc điểm, tình hình KT-XH, điều kiện địa hình, địa chất, thời tiết khí hậu của từng địa phương...
1.1.3. Vai trò của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
Chi ĐTPT từ NSNN có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển KT-XH của một quốc gia. Sự gia tăng nguồn vốn, phân bố và sử dụng chúng một cách hiệu quả, sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, gia tăng xuất khẩu và tăng tích luỹ của nền kinh tế.
1.1.3.1. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tác động đến tổng cung, tổng cầu và tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế
- Về mặt cầu: Chi ĐTPT tạo ra lượng cầu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của WB, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới [73]. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong ngắn hạn, khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của chi ĐTPT làm cho tổng cầu tăng, kéo sản lượng cân bằng tăng và giá cả các yếu tố đầu vào tăng.
- Về mặt cung: Khi thành quả của chi ĐTPT phát huy tác dụng, năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất phát triển hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển KT-XH, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- Do tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung, nên một sự thay đổi của đầu tư đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.
1.1.3.2. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Chi ĐTPT có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Sự gia tăng nguồn vốn, phân bổ và sử dụng có hiệu quả sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để xem xét tác động của chi ĐTPT đối với tăng trưởng kinh tế ta có thể sử dụng mô hình Harrod- Domar, với các giả định:
- Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
- Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo một hệ số cố định.
Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) phản ánh hiệu quả đầu tư, là nhu cầu VĐTPT toàn xã hội để tăng thêm một đồng GDP.
ICOR = =
Mức tăng GDP =
Hoặc có thể tính hệ số ICOR theo phương pháp thứ hai:
ICOR =
Iv: Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước
Ig: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% tổng sản phẩm trong nước đòi hỏi phải tăng tỷ lệ VĐT so với GDP là bao nhiêu phần trăm.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào VĐT. ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động, nên phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn VĐT đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một "cái hích ban đầu", tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICs, các nước Đông Nam á...).
Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó, các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
1.1.3.3. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.1.3.4. Chi đầu tư phát triển với việc tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều so với thế giới và khu vực. Với thực trạng đó, quá trình CNH, HĐH đất nước sẽ gặp khó khăn nếu không đề ra chiến lược ĐTPT công nghệ nhanh và vững chắc.
Hai con đường cơ bản để đạt được công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu phát minh hay nhập từ nước ngoài cũng cần phải có VĐT. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn VĐT sẽ là những phương án không khả thi.
1.1.3.5. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước góp phần phát triển con người và giải quyết các vấn đề xã hội
Theo các nhà kinh tế thì chi đầu tư cho giáo dục cũng là một dạng đầu tư - đầu tư vốn con người (human capital). Garry Becker- người nhận giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 khẳng định: "Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục" [60]. Đầu tư cho giáo dục cũng nhằm tăng cường năng lực sản xuất cho tương lai của nền kinh tế, vì khi con người được trang bị kiến thức tốt hơn thì sẽ làm việc hiệu quả hơn, năng suất sẽ cao hơn.
Đồng thời, đầu tư tạo ra tăng trưởng kinh tế và bản thân tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến việc góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động từ thiện khác... Khi đã giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đến lượt nó lại là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự phát triển bền vững trong tương lai.
1.1.3.6. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tạo tiền đề và điều kiện để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư khác
Chi ĐTPT từ NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình KT-XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Chi ĐTPT từ NSNN được coi là "vốn mồi" để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước ĐTPT trên tất cả các lĩnh vực KT-XH, là hạt nhân thúc đẩy xã hội hoá đầu tư, thực hiện CNH,HĐH đất nước.
Nhìn chung, chi ĐTPT từ NSNN đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng nhằm tạo ra một CSHT có sức thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhà nước tập trung các dự án lớn, ít hoặc không có khả năng thu hồi vốn, lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các công trình công cộng, phát triển CSHT... với chính sách phân bổ hợp lý đã góp phần khuyến khích đầu tư với nhiều thành phần kinh tế tạo điều kiện hình thành nên các ngành, vùng kinh tế quan trọng.
1.2. Nội dung quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh
Chi ĐTPT từ NSNN là hoạt động có tính liên ngành, do đó, quản lý chi ĐTPT từ NSNN là yêu cầu khách quan nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN, đáp ứng các mục tiêu phát triển KT-XH trên địa bàn.
Quản lý, theo nghĩa chung, là sự tác động có mục đích của chủ thể vào các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra.
Quản lý chi ĐTPT từ NSNN là một trong những nội dung cơ bản của quản lý NSNN. Do đó, quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh cũng phải tuân theo trình tự quản lý NSNN theo đúng Luật NSNN: Lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Đồng thời, do ĐTPT là một quá trình kéo dài từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc đầu tư đưa dự án vào khai thác sử dụng, vì vậy hiệu quả chi ĐTPT phụ thuộc lớn vào chất lượng quá trình ĐTXD, và được chi phối bởi Luật Xây dựng. Chính vì thế, nội dung quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh, bên cạnh việc tuân thủ những quy định cơ bản từ Luật NSNN, cần xem xét tác động từ Luật Xây dựng.
Quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào quá trình phân bổ, sử dụng và quyết toán VĐT từ NSNN tỉnh bằng hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được các kết quả, hiệu quả đầu tư và các mục tiêu theo chiến lược phát triển KT-XH tại địa phương.
Quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh gồm những nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Quản lý về kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh
1.2.1.1. Khái niệm về kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh
Kế hoạch VĐT là dự toán chi cho từng chương trình, dự án ĐTPT, được cấp thẩm quyền phê chuẩn theo từng thời kỳ, thường là một năm.
Kế hoạch VĐT vừa là nội dung, vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư nói chung, quản lý chi ĐTPT từ NSNN nói riêng.
Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phản ánh khả năng huy động, bố trí sử dụng vốn NSNN tỉnh, theo tiến độ thời gian và từng chương trình, dự án.
Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh cho phép phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Một kế hoạch VĐT hợp lý sẽ giảm bớt những thất thoát và lãng phí; hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường; điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý...
1.2.1.2. Nguyên tắc lập kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh
Công tác lập kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải quán triệt những nguyên tắc: - Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải dựa trên cơ sở quy hoạch, định hướng phát triển KT-XH của tỉnh. Các chiến lược, quy hoạch phát triển là cơ sở khoa học để lập kế hoạch đầu tư.
"Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào quy hoạch, chương trình, dự án đầu tư đã có quyết định của cấp có thẩm quyền, ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai thực hiện các chương trình, dự án" [48, tr.44].
- Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá VĐT theo các chương trình, dự án. Điểm mới của công tác kế hoạch trong cơ chế thị trường là việc lập kế hoạch theo chương trình phát triển và dự án. Chương trình phát triển là công cụ thực hiện kế hoạch, là tập hợp các mục tiêu, biện pháp nhằm phối hợp thực hiện một cách hiệu quả nhất mục tiêu kế hoạch đề ra trong điều kiện thời gian và nguồn lực nhất định. Thực chất của công tác kế hoạch hoá VĐT theo chương trình và dự án là lập các kế hoạch ĐTPT trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch, lựa chọn các vấn đề vào chương trình phát triển và xây dựng các dự án đầu tư để thực hiện chương trình đó. Thực hiện tốt các chương trình phát triển và dự án là cơ sở thực hiện thành công kế hoạch đầu tư từ NSNN.
- Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, kịp thời và linh hoạt. Kế hoạch VĐT phải dựa trên những căn cứ khoa học về chiến lược, định hướng phát triển KT-XH, chiến lược đầu tư chung của nền kinh tế, ngành, địa phương, vào khả năng và thực trạng của NSNN... Kế hoạch VĐT phải đồng bộ giữa các nội dung đầu tư, giữa mục tiêu và biện pháp, đảm bảo tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý, đồng thời có tính linh hoạt cao. Kế hoạch sẽ được điều chỉnh khi thay đổi nhu cầu và nguồn lực thực hiện.
- Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải đảm bảo mục tiêu kết hợp tốt giữa vốn NSNN và các nguồn vốn khác, kết hợp hài hoà giữa lợi ích hiện tại với lợi ích lâu dài, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn để xem xét đánh giá. Kế hoạch VĐT từ NSNN là một bộ phận rất quan trọng của kế hoạch đầu tư nói
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van nop.doc
- bia.doc