Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Nó là một trong những công cụ hữu ích của Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, ổn định và công bằng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội đã được xây dựng từ Trung ương đến địa phương trong cả nước.
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Trong nhiều năm qua, việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá đã đạt được những thành công quan trọng. Số đơn vị sử dụng lao động và số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên. Đồng thời, nguồn thu bảo hiểm xã hội cũng có sự tăng trưởng khá, liên tục qua các năm. Các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động được thực hiện khá tốt. Lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội của các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội được chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn. Có được kết quả đó không thể không nói đến những cố gắng lớn của ngành Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá trong việc đổi mới quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho cấp huyện, nâng cao hiệu quả quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá còn có những vấn đề cần quan tâm. Bảo hiểm xã hội cấp huyện được phân cấp quản lý mạnh song họ lại không được cung cấp đầy đủ các điều kiện để thực hiện sự phân cấp đó. Chẳng hạn, biên chế cán bộ, công chức bảo hiểm xã hội còn thiếu, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật còn khó khăn.Điều đó đã dẫn đến tình trạng quá tải trong quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tại cấp huyện. Theo đó, việc khai thác tiềm năng của một tỉnh lớn như Thanh Hoá cho phát triển bảo hiểm xã hội, phát triển kinh tế của tỉnh bị hạn chế. Bên cạnh đó, do còn có những điểm chưa hợp lý, phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và thụ hưởng các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội,.Trong khi đó, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thị trường lao động ngày càng phát triển, các quan hệ lao động càng trở nên phức tạp. Người lao động và người sử dụng lao động phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Thực tế đó đòi hỏi quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung và ở Thanh Hoá nói riêng phải được tiếp tục hoàn thiện và đổi mới mạnh hơn nữa. Thực tế đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá, nhằm tìm ra giải pháp hữu ích cho vấn đề này, đáp ứng những yêu cầu mới mà thực tiễn đặt ra. Đó cũng là lý do tôi chọn vấn đề: " Hoàn thiện phõn cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xó hội ở tỉnh Thanh Hoỏ" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với hy vọng góp một phần nhỏ vào những nghiên cứu chung đó.
95 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện phõn cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Nó là một trong những công cụ hữu ích của Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, ổn định và công bằng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội đã được xây dựng từ Trung ương đến địa phương trong cả nước.
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Trong nhiều năm qua, việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá đã đạt được những thành công quan trọng. Số đơn vị sử dụng lao động và số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên. Đồng thời, nguồn thu bảo hiểm xã hội cũng có sự tăng trưởng khá, liên tục qua các năm. Các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động được thực hiện khá tốt. Lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội của các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội được chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn. Có được kết quả đó không thể không nói đến những cố gắng lớn của ngành Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá trong việc đổi mới quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho cấp huyện, nâng cao hiệu quả quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá còn có những vấn đề cần quan tâm. Bảo hiểm xã hội cấp huyện được phân cấp quản lý mạnh song họ lại không được cung cấp đầy đủ các điều kiện để thực hiện sự phân cấp đó. Chẳng hạn, biên chế cán bộ, công chức bảo hiểm xã hội còn thiếu, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật còn khó khăn....Điều đó đã dẫn đến tình trạng quá tải trong quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tại cấp huyện. Theo đó, việc khai thác tiềm năng của một tỉnh lớn như Thanh Hoá cho phát triển bảo hiểm xã hội, phát triển kinh tế của tỉnh bị hạn chế. Bên cạnh đó, do còn có những điểm chưa hợp lý, phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và thụ hưởng các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội,....Trong khi đó, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thị trường lao động ngày càng phát triển, các quan hệ lao động càng trở nên phức tạp. Người lao động và người sử dụng lao động phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Thực tế đó đòi hỏi quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung và ở Thanh Hoá nói riêng phải được tiếp tục hoàn thiện và đổi mới mạnh hơn nữa. Thực tế đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá, nhằm tìm ra giải pháp hữu ích cho vấn đề này, đáp ứng những yêu cầu mới mà thực tiễn đặt ra. Đó cũng là lý do tôi chọn vấn đề: " Hoàn thiện phõn cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xó hội ở tỉnh Thanh Hoỏ" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với hy vọng góp một phần nhỏ vào những nghiên cứu chung đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài. Có thể gom các công trình đó theo hai nhóm sau:
Nhóm đề tài nghiên cứu ở tầm Quốc gia:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh: "Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam" năm 2005.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay" năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý: "Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam" năm 2006.
Nhóm đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Thanh Hoá
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám: "Hoàn thiện quản lý bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2004
- Đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu: "Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" năm 1999 và "Nghiên cứu mô hình thu chi bảo hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2000.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm xã hội, nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau về bảo hiểm xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh nghiên cứu về vấn đề quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội. Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Hai đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu nghiên cứu ở góc độ quản lý chi trả các chế độ dài hạn và nghiên cứu mô hình thu, chi bảo hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám nghiên cứu về vấn đề quản lý bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1995-2003. Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực hiện trong điều kiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội được xây dựng và thực thi theo Điều lệ do Chính phủ ban hành, chưa được bổ sung, sửa đổi theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội hiện hành. Nhiều vấn đề cấp bách đặt ra cho công tác quản lý thu chi BHXH trong thời kỳ mới cũng chưa được giải quyết trong các công trình nói trên. Mặt khác, phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội là vấn đề mới mẻ, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp quản lý trong hệ thống Bảo hiểm xã hội. Song, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù vậy, các công trình đó vẫn là những tài liệu tham khảo rất có giá trị trong nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. Đánh giá thực trạng vấn đề này tại tỉnh Thanh Hoá. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. Về thời gian, luận văn nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá trong thời kỳ từ năm 1995 đến nay, trong đó, trọng tâm nghiên cứu trong giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu cập nhật đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung, luận văn còn chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp; phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê trên cơ sở các số liệu tổng hợp, báo cáo, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Làm rõ nội dung phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá, chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội trong thời gian tới, trong đó, có đề xuất thực hiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tới cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thanh Hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 95 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn được kết cấu thành 03 chương, 07 tiết.
Chương 1
những vấn đề cơ bản
về quản lý và phân cấp quản lý bảo hiểm xã hội
1.1. Quản lý bảo hiểm xã hội
Một số khái niệm
* Khái niệm quản lý bảo hiểm xã hội.
Trước hết nói về khái niệm bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/6/2006 đã xác định: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH" [33, tr.10].
Như vậy, BHXH là một hình thức bảo vệ người lao động trên cơ sở sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và tài trợ của Nhà nước để trợ cấp vật chất cho người đóng BHXH, trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, hoặc chết theo quy định của pháp luật. Do vậy, bảo hiểm xã hội có những đặc trưng cơ bản, đó là:
Thứ nhất, BHXH là sự bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động.
Thứ hai, các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, già yếu, chết. Do những rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có nguồn thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của BHXH.
Thứ ba, người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ đóng BHXH. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động mà họ quản lý, thuê mướn, sử dụng. Sự đóng góp đó gọi là sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Nó hình thành nên một quỹ tài chính gọi là quỹ BHXH. Quỹ này dùng để chi trả các trợ cấp khi có phát sinh các nhu cầu về hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, các hoạt động về BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Các chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo trợ các hoạt động của BHXH.
BHXH là hình thức bảo hiểm được thực hiện ở tất cả các quốc gia và Nhà nước ở tất cả các quốc gia đều tham gia quản lý BHXH. Vậy quản lý BHXH là gì?
Quản lý BHXH có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở vận dụng khái niệm quản lý nói chung vào lĩnh vực BHXH, chúng ta có thể xác định khái niệm quản lý BHXH như sau: Quản lý BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý tới hoạt động BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu xác định trong từng thời kỳ.
Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý BHXH là cơ quan BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định số 19/CP, ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương là BHXH Việt Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. ở cấp xã, phường, thị trấn không có cơ quan quản lý BHXH mà chỉ có Ban đại diện chi trả do cơ quan quản lý BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố ký hợp đồng uỷ quyền quản lý kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng các chế độ BHXH trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là các đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. Đó là những người sử dụng lao động và bản thân người lao động.
Mục tiêu quản lý BHXH là nhằm bảo vệ người lao động tránh hiểm họa của công việc, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển của cả xã hội.
Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
* Phân biệt một số khái niệm.
Quản lý nhà nước về BHXH là sự tác động của cơ quan Nhà nước tới lĩnh vực BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ nhất định.
Quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH được phân biệt ở năm điểm sau:
Thứ nhất, khác với chủ thể quản lý BHXH, chủ thể quản lý nhà nước về BHXH gồm rất nhiều cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Lao động TB&XH, các bộ và cơ quan ngang bộ liên quan đến lĩnh vực BHXH, UBND cấp tỉnh, huyện. Chủ thể quản lý BHXH là cơ quan BHXH. ở Trung ương, BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ; sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động TB&XH và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH chịu sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc của BHXH Việt Nam và sự quản lý nhà nước của UBND các cấp (tỉnh, huyện).
Thứ hai, đối tượng quản lý nhà nước về BHXH là lĩnh vực BHXH, còn đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là những người tham gia và thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH. Như vậy, có thể thấy rằng đối tượng quản lý nhà nước về BHXH có phạm vi rộng hơn nhiều so với đối tượng quản lý BHXH. Đối tượng quản lý BHXH và cơ quan BHXH cũng thuộc đối tượng quản lý nhà nước về BHXH.
Thứ ba, mục tiêu quản lý nhà nước về BHXH là tạo dựng một cơ sở pháp lý vững chắc, tạo lập sự công bằng, bình đẳng để mọi người lao động trong các thành phần kinh tế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ BHXH, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an toàn xã hội và ổn định chính trị. Mục tiêu quản lý BHXH là xây dựng và hình thành nguồn quỹ BHXH ổn định, vững chắc trên cơ sở đóng góp của các bên tham gia BHXH, đầu tư tăng trưởng phát triển quỹ BHXH; chi trả kịp thời trợ cấp BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ tư, cơ chế quản lý nhà nước về BHXH gồm các luật liên quan tới BHXH, chiến lược, kế hoạch, chế độ chính sách BHXH. Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm soát việc thu, chi BHXH.
Thứ năm, nội dung quản lý nhà nước về BHXH gồm bảy nội dung chính:
i) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội;
ii) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
iii) Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội;
iv) Thực hiện công tác thống kê, thông tin về bảo hiểm xã hội;
v) Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác bảo hiểm xã hội;
vi) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
vii) Hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội [33, tr.13].
ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ Lao động TB&XH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung quản lý BHXH gồm: Quy định về tổ chức thu, chi BHXH; thực hiện việc tổ chức triển khai thu, chi BHXH; tổ chức kiểm tra, giám sát thu, chi BHXH; tuyên truyền giải thích chế độ, chính sách BHXH....Nói cách khác, quản lý BHXH có nội dung chủ yếu là quản lý thu, chi BHXH.
Như vậy, khái niệm quản lý nhà nước về BHXH là một khái niệm rất rộng, bao trùm lĩnh vực BHXH của một quốc gia. Trong khi đó, khái niệm quản lý BHXH có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong hoạt động thu, chi BHXH đối với các đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ chính sách BHXH.
Cùng với việc phân biệt quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, chúng ta cần phân biệt khái niệm chính sách BHXH và chế độ BHXH.
"Chính sách BHXH là những quy định chung của Nhà nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức thực hiện các chế độ BHXH" [31, tr.44].
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể của pháp luật, về trách nhiệm và quyền lợi của người tham gia BHXH, tuỳ theo tính chất, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm cụ thể, hiện áp dụng các chế độ bảo hiểm sau: chế độ ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Các chế độ trợ cấp nằm trong hệ thống pháp luật BHXH [15, tr 45].
Ngoài các chế độ trên, hiện nay ở Việt Nam đang thực hiện một loại chế độ trợ cấp BHXH gần giống như dạng trợ cấp tàn tật theo quy định tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế. Đó là chế độ trợ cấp mất sức lao động theo Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
1.1.2. Nội dung quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Quy định về thu, chi bảo hiểm xã hội
* Quy định về thu bảo hiểm xã hội
Các đối tượng phải tham gia đóng BHXH bắt buộc bao gồm cả người sử dụng lao động và bản thân người lao động.
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; phu nhân, phu quân trong thời gian hưởng chế độ phu nhân, phu quân tại các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài mà trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc; người lao động là xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá thể dục thể thao, khoa học công nghệ, môi trường, xã hội, dân số gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các đơn vị sự nghiệp khác, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
Việc quản lý đối tượng tham gia BHXH được thực hiện thông qua danh sách đăng ký đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Người lao động đã đóng BHXH sẽ được cơ quan BHXH ghi nhận vào sổ BHXH để quản lý theo dõi diễn biến quá trình đóng BHXH và xét duyệt, giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động khi có yêu cầu.
Mức đóng BHXH hàng tháng đối với người sử dụng lao động bằng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, trong đó: đóng cho cơ quan BHXH là 13%, được giữ lại đơn vị 2% để chi trả hai chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động trong đơn vị. Người lao động đóng 5% tiền lương, tiền công tháng. Riêng đối với hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân nhân, hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân nhân phục vụ có thời hạn thì mức đóng BHXH bằng 17% mức tiền lương tối thiểu do người sử dụng lao động đóng.
Mức đóng BHXH hàng tháng bằng 16% mức tiền lương, tiền công tháng đối với người lao động là phu nhân, phu quân hưởng lương từ NSNN. Trong đó, người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 11%. Trường hợp phu quân, phu nhân không phải là cán bộ công chức Nhà nước nhưng đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc thì hàng tháng họ đóng 16% mức tiền lương đã đóng BHXH trước khi đi nước ngoài.
Tiền đóng BHXH của người lao động và quỹ lương được dùng để đóng BHXH của cơ quan, đơn vị được xác định trên cơ sở mức lương của từng người lao động ở từng lĩnh vực công tác khác nhau.
Tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng là tiền lương theo ngạch, bậc được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ.
Tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH tại các công ty Nhà nước, được xác định theo thang bảng lương của Nhà nước quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-CP và Nghị định số 207/2004/NĐ-CP, ngày 14/12/2004 của Chính phủ.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động làm việc trong các hợp tác xã là mức tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên xác định thông qua và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động thuộc các hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân do người sử dụng lao động quản lý nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc các doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, kiểm soát viên là mức tiền lương do điều lệ công ty quy định nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Đối với nguồn thu BHXH, Nhà nước quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Tất cả mọi đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải chuyển hết về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện thu nộp BHXH, BHXH tỉnh, huyện có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách số lao động đăng ký đóng BHXH, đăng ký quỹ lương và số tiền đóng BHXH. Định kỳ hàng tháng có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận việc đóng BHXH của từng lao động trong đơn vị và tiến hành ghi sổ BHXH. Thực hiện việc tính lãi nộp chậm nếu đơn vị không đóng BHXH đúng thời gian.
Để thu nhận và quản lý số tiền thu nộp BHXH của các cơ quan, đơn vị, cơ quan BHXH tỉnh, huyện được mở hai tài khoản. Một là, tài khoản chuyên thu tại hệ thống Kho bạc Nhà nước tỉnh, huyện để giao dịch tiền thu nộp BHXH của các đơn vị hành chính sự nghiệp và một số đơn vị doanh nghiệp có mở tài khoản thanh toán tại Kho bạc tỉnh, huyện. Hai là, tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, huyện để thanh toán giao dịch tiền thu BHXH của các doanh nghiệp và các đơn vị khác. Vào các ngày 10, 25 hàng tháng và 31/12 hàng năm, BHXH cấp huyện phải chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Định kỳ hàng tháng, vào các ngày 10, 20 và ngày cuối tháng, BHXH tỉnh phải chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam, không được sử dụng tiền thu để chi cho bất cứ công việc gì.
Do tính chất đặc thù trong tổ chức hoạt động, các cơ quan thuộc lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh, huyện như Quân đội (Ban Chỉ huy Quân sự), Công an sẽ do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện việc thu nộp BHXH tập trung và chuyển cho cơ quan BHXH Việt Nam. Các đơn vị này có trách nhiệm ghi sổ BHXH về thời gian, mức đóng góp để làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động.
* Quy định về chi bảo hiểm xã hội
Đối tượng chi BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có thể là những thân nhân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ chồng, con) trực tiếp phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tuỳ thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải.
Về kinh phí chi trả các chế độ BHXH, các đối tượng đã hưởng BHXH từ 01/01/1995 trở về trước được chi trả chế độ từ nguồn ngân sách nhà nước. Các đối tượng thụ hưởng BHXH được xét duyệt sau ngày 01/01/1995 được chi trả chế độ từ nguồn quỹ BHXH. Cơ quan BHXH quản lý kinh phí và thực hiện chi trả các chế độ BHXH hàng tháng cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp công nhân cao su, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp phục vụ người bị tai nạn lao động, trợ cấp tuất, trợ cấp theo Quyết định 91/2000/QĐ-TTg, ngày 04/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện trả các chế độ một lần, bao gồm: trợ cấp tuất một lần t