Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ tiến bộ đã được sử dụng từ cách đây hàng nghìn năm, trong đó nhà nước tạo cơ hội cho người dân được trực tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước. Thông qua hình thức dân chủ này, người dân được trực tiếp tham gia vào việc hoạch định các chính sách, quyết sách lớn của đất nước. Ngày nay, trên thế giới, nhiều nước đã và đang sử dụng hình thức này như là một phương thức hữu hiệu trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của hình thức dân chủ này, nên ngay sau khi đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị là Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã chỉ đạo đưa vào Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập những quy định về trưng cầu ý dân với hình thức nhân dân phúc quyết. Sau này trong các bản Hiến pháp tiếp theo của Nhà nước ta, vấn đề trưng cầu ý dân tiếp tục được ghi nhận với các tên gọi khác nhau như trưng cầu ý kiến nhân dân trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 hay là trưng cầu ý dân trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do là quy định trong các bản Hiến pháp về trưng cầu ý dân còn quá chung chung, lại không có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa, nên trong thực tế hơn 60 năm xây dựng và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta chưa từng tổ chức trưng cầu ý dân. Mặt khác, về mặt khoa học pháp lý cũng chưa có những nghiên cứu sâu và trực diện về vấn đề này, cho nên cách hiểu về trưng cầu ý dân hiện nay cũng còn có những điểm chưa thống nhất.
Trong điều kiện chúng ta đang phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì việc phát huy dân chủ, huy động trí tuệ và tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia quyết định các chính sách, quyết sách lớn của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận cũng như về hiệu quả thực hiện pháp luật. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cha ông từ xưa đến nay đã cho thấy, nhân dân bao giờ cũng là cội nguồn của quyền lực, quyết định sự hưng vong của xã tắc, bởi thế không bao giờ được xem nhẹ ý chí của nhân dân. Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây trong nhiều văn kiện của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng v.v đã xác định rõ sự cần thiết phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đặt ra nhiệm vụ phải sớm xây dựng Luật trưng cầu ý dân.
106 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ tiến bộ đã được sử dụng từ cách đây hàng nghìn năm, trong đó nhà nước tạo cơ hội cho người dân được trực tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước. Thông qua hình thức dân chủ này, người dân được trực tiếp tham gia vào việc hoạch định các chính sách, quyết sách lớn của đất nước. Ngày nay, trên thế giới, nhiều nước đã và đang sử dụng hình thức này như là một phương thức hữu hiệu trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của hình thức dân chủ này, nên ngay sau khi đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị là Chủ tịch ủy ban dự thảo Hiến pháp đã chỉ đạo đưa vào Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập những quy định về trưng cầu ý dân với hình thức nhân dân phúc quyết. Sau này trong các bản Hiến pháp tiếp theo của Nhà nước ta, vấn đề trưng cầu ý dân tiếp tục được ghi nhận với các tên gọi khác nhau như trưng cầu ý kiến nhân dân trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 hay là trưng cầu ý dân trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do là quy định trong các bản Hiến pháp về trưng cầu ý dân còn quá chung chung, lại không có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa, nên trong thực tế hơn 60 năm xây dựng và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta chưa từng tổ chức trưng cầu ý dân. Mặt khác, về mặt khoa học pháp lý cũng chưa có những nghiên cứu sâu và trực diện về vấn đề này, cho nên cách hiểu về trưng cầu ý dân hiện nay cũng còn có những điểm chưa thống nhất.
Trong điều kiện chúng ta đang phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì việc phát huy dân chủ, huy động trí tuệ và tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia quyết định các chính sách, quyết sách lớn của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận cũng như về hiệu quả thực hiện pháp luật. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cha ông từ xưa đến nay đã cho thấy, nhân dân bao giờ cũng là cội nguồn của quyền lực, quyết định sự hưng vong của xã tắc, bởi thế không bao giờ được xem nhẹ ý chí của nhân dân. Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây trong nhiều văn kiện của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng v.v… đã xác định rõ sự cần thiết phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đặt ra nhiệm vụ phải sớm xây dựng Luật trưng cầu ý dân.
Trên cơ sở đó, vấn đề Hoàn thiện phỏp luật về trưng cầu ý dõn ở Việt Nam hiện nay là vấn đề rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Lựa chọn vấn đề này làm luận văn thạc sĩ, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng các cơ sở pháp lý bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên sự thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân, để hướng tới xây dựng một nền dân chủ mới - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu
Như trên đã trình bày, trưng cầu ý dân là vấn đề ít được các nhà khoa học pháp lý của nước ta chú ý đến. Có lẽ vì vậy nên chưa có công trình khoa học lớn nào nghiên cứu sâu và trực diện về vấn đề này. Cho đến nay, mới chỉ có một số bài viết đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề trưng cầu ý dân như: Bàn về chế định trưng cầu ý dân (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 57, tháng 8 năm 2005); Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và liên bang Nga (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 59, tháng 9 năm 2005); Đánh giá kết quả trưng cầu ý dân ở Australia (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 67, tháng 1 năm 2006); Trưng cầu ý dân và dự thảo Luật về trưng cầu ý dân (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Hiến kế lập pháp, số 68, tháng 2 năm 2006); Thủ tục trưng cầu ý dân (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 69, tháng 2 năm 2006). Ngoài ra, cũng còn có một số bài viết khác tuy không trực tiếp viết về vấn đề trưng cầu ý dân nhưng trong nội dung cũng có đề cập đến vấn đề trưng cầu ý dân như: Một số ý kiến về dân chủ trực tiếp (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 128, tháng 12 năm 1998 v.v...
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay, phân tích những mặt hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành để từ đó kiến giải những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Trưng cầu ý dân bao gồm rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, Luận văn chỉ tập trung vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích và khái quát hóa pháp luật về trưng cầu ý dân trong lịch sử và hiện nay, tham khảo các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân ở một số nước, phân tích các yêu cầu của thực tế để làm nổi bật lên vấn đề quan tâm chủ yếu là hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Luận văn nghiên cứu về lý luận và thực tiễn pháp luật về trưng cầu ý dân để đề ra giải pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau đây:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển của pháp luật về trưng cầu ý dân, vai trò của pháp luật về trưng cầu ý dân; mục tiêu hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân, tìm ra những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của tình hình để từ đó đề xuất các giải pháp, nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và về vấn đề trưng cầu ý dân nói riêng được thể hiện trong các văn kiện như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng v.v…
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu, như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, khảo sát thực tế và có tham khảo kinh nghiệm của một số nước.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập trung và trực diện về vấn đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam ở cả góc độ lịch sử và hiện tại; đưa ra một quan điểm thống nhất về trưng cầu ý dân và vai trò của trưng cầu ý dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đề ra các giải pháp tổng thể cho việc hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn có đóng góp về lý luận cho việc phát huy dân chủ trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp luật; về mặt thực tiễn, góp phần hiện thực hóa các quy định của pháp luật về trưng cầu ý dân. Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, để nghiên cứu, giảng dạy, học tập, phục vụ cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và pháp luật về trưng cầu ý dân nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân
1.1. Tổng quan về trưng cầu ý dân
1.1.1. Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ
Trưng cầu ý dân là một thuật ngữ pháp lý tuy không phải là mới mẻ ở nước ta, nhưng do ít được đề cập, bàn luận nên trên thực tế còn có những cách hiểu giản đơn, chưa thống nhất, thậm chí rất khác nhau. Trong nhiều trường hợp đã sử dụng thuật ngữ này một cách quá dễ dãi, thiếu chuẩn xác, chẳng hạn như gọi việc công bố dự thảo Hiến pháp hay một dự án luật để lấy ý kiến nhân dân là trưng cầu ý dân, coi việc điều tra dư luận xã hội là trưng cầu ý dân, thậm chí một số doanh nghiệp tổ chức các cuộc thi sáng tác biểu trưng cho doanh nghiệp mình cũng gọi là trưng cầu ý dân v.v... Vì vậy, để đi sâu nghiên cứu, đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân trước hết cần phải làm rõ nội hàm của thuật ngữ này.
Có thể nhận thấy, trong thực tiễn pháp luật nước ta có rất nhiều thuật ngữ được sử dụng liên quan đến trưng cầu ý dân. Trong Hiến pháp năm 1946 sử dụng thuật ngữ phúc quyết, trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 sử dụng thuật ngữ trưng cầu ý kiến nhân dân, trong Hiến pháp năm 1992 sử dụng thuật ngữ trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, trong một số văn bản pháp luật cũng sử dụng một số thuật ngữ khác có nội dung gần với nghĩa của các thuật ngữ này, như: lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học v.v…
- Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng phối hợp với Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1995 thì trưng cầu được hiểu là "hỏi ý kiến của số đông người một cách có tổ chức" [59, tr. 1019], dân ý được hiểu là "ý kiến của nhân dân về một vấn đề chính trị nào đó" [59, tr. 239]; trưng cầu dân ý hay trưng cầu ý dân được hiểu là "hỏi ý kiến nhân dân bằng tổ chức bỏ phiếu, để nhân dân trực tiếp quyết định về một vấn đề quan trọng của đất nước" [59, tr. 1019].
- Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2004 thì Trưng cầu dân ý (Referendum/plebiscite Référendum) được hiểu là:
Một hoạt động do Nhà nước thực hiện để nhân dân bỏ phiếu quyết định hoặc bày tỏ ý kiến về những việc đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Việc trưng cầu dân ý do Hiến pháp của mỗi quốc gia quy định nên tùy theo mỗi nước có thể trưng cầu dân ý để quyết định Hiến pháp hoặc một đạo luật quan trọng. Cũng có trường hợp trưng cầu chỉ có tính chất tư vấn còn quyền quyết định vẫn thuộc quyền cơ quan lập pháp. Có trường hợp trưng cầu dân ý là bắt buộc và cũng có trường hợp cơ quan lập pháp xét thấy cần thiết thì mới tổ chức [25, tr. 366].
- Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2001, Trưng cầu dân ý (Referendum/ plebiscite - Référendum) được hiểu là:
Việc tổ chức do Nhà nước thực hiện để nhân dân bỏ phiếu quyết định hoặc bày tỏ ý kiến về những việc đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Việc trưng cầu dân ý do Hiến pháp của mỗi quốc gia quy định nên tùy theo mỗi nước có thể trưng cầu dân ý để quyết định Hiến pháp hoặc một đạo luật quan trọng. Cũng có trường hợp trưng cầu dân ý chỉ có tính chất tư vấn còn quyền quyết định vẫn thuộc quyền cơ quan lập pháp. Có trường hợp trưng cầu dân ý là bắt buộc và cũng có trường hợp cơ quan lập pháp xét thấy cần thiết thì mới tổ chức [56, tr. 128].
- Theo Từ điển Pháp - Việt, Pháp luật - Hành chính do Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 1992 thì Trưng cầu ý dân (Référendum) được hiểu là:
Một hình thức tổ chức và hoạt động của nền dân chủ nửa trực tiếp, qua đó nhân dân cộng tác và tham gia vào quyền lập pháp. Lấy ý kiến nhân dân bằng cách tổ chức bỏ phiếu để nhân dân trực tiếp quyết định về một vấn đề quan trọng của đất nước, như thông qua Hiến pháp, một đạo luật, quyết định một chính sách, hoặc yêu cầu Quốc hội biểu quyết một dự án luật do nhân dân có sáng kiến đề nghị [57, tr. 250].
Từ những giải thích nêu trên, có thể nhận thấy rằng ý dân, dân ý hay ý kiến nhân dân cũng đều có nghĩa tương tự nhau, đều là ý kiến của nhân dân. Vì vậy, các thuật ngữ trưng cầu ý dân, trưng cầu dân ý hay trưng cầu ý kiến nhân dân cũng đều có nghĩa tương tự nhau. Sau đây chúng tôi xin sử dụng một thuật ngữ chung là trưng cầu ý dân khi đề cập đến các thuật ngữ này.
Cội nguồn lịch sử ra đời của thuật ngữ trưng cầu ý dân (referendum) có nguồn gốc từ tiếng Latin, được hiểu là sự bỏ phiếu của cử tri nhằm mục đích thông qua các quyết định có tính chất quốc gia hay địa phương. Trong tiếng Anh, thuật ngữ trưng cầu ý dân tương đương với referendum, được hiểu là việc đưa một văn bản của cơ quan lập pháp, một đề nghị sửa đổi Hiến pháp hay một vấn đề quan trọng của quốc gia để toàn dân quyết định dưới hình thức bỏ phiếu [59, tr. 1307]; trong tiếng Pháp, thuật ngữ trưng cầu ý dân tương đương với référendum, được hiểu là một thủ tục cho phép công dân của một quốc gia bày tỏ sự tán thành hay bác bỏ một biện pháp (giải pháp) do cơ quan Nhà nước đưa ra thông qua hình thức bỏ phiếu [60, tr. 827].
Trong mối quan hệ Nhà nước - công dân, trưng cầu ý dân phản ánh bản chất của nền dân chủ. Trên thực tế, hình thức trưng cầu ý dân đã được sử dụng từ rất sớm, ngay từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên, tại cộng hòa A-ten, ở các Thị xã (polis), mỗi khi có vấn đề của Thị xã cần phải giải quyết thì dân chúng được triệu tập đến công trường thành phố, ở đó các nhà lãnh đạo đương nhiệm trình bày các vấn đề và lấy biểu quyết của dân chúng; dân chúng biểu quyết bằng cách hô to hoặc giơ tay để biểu thị sự đồng thuận hay bác bỏ vấn đề được nêu ra; với hình thức này, dân chúng tự mình tham gia vào các quyết định liên quan đến đời sống của Thị xã [5, tr. 67]. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, hình thức trưng cầu được nhiều nước áp dụng và coi sự tồn tại của nó như là một trong những biểu hiện sinh động của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Như vậy, trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ, trong đó người dân được trực tiếp quyết định đối với một số công việc của Nhà nước; xét về bản chất thì đây là một hình thức của dân chủ trực tiếp (theo truyền thống, người ta phân chia dân chủ thành hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp hay còn gọi là dân chủ đại diện, trong đó: dân chủ đại diện là hình thức mà người dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua cơ quan đại diện; còn dân chủ trực tiếp là hình thức người dân thực hiện quyền làm chủ thông qua việc trực tiếp bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, ý chí của mình về công việc của Nhà nước). Tuy nhiên, trong trưng cầu ý dân thì chủ thể đưa vấn đề ra để trưng cầu ý dân luôn là Nhà nước, còn người dân biểu đạt ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một cách hiểu chung về trưng cầu ý dân như sau:
Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện mối quan hệ Nhà nước - công dân trong quản lý, điều hành đất nước, trong đó cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục luật định đưa một vấn đề ra để nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu.
1.1.2. Phân biệt trưng cầu ý dân với phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử và điều tra xã hội học
Do nội hàm của thuật ngữ trưng cầu ý dân gần với nghĩa của một số thuật ngữ khác, như phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học nên cần có sự phân biệt với các thuật ngữ này.
- Trưng cầu ý dân và phúc quyết.
Trong lịch sử hệ thống pháp luật của nước ta, thuật ngữ phúc quyết rất ít khi được sử dụng, chúng ta chỉ có thể thấy thuật ngữ này được sử dụng trong Hiến pháp năm 1946 và trong một số văn bản về tổ chức chính quyền địa phương vào cùng thời điểm đó. Trong Hiến pháp năm 1946 có quy định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý" (Điều thứ 32); "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia..." (Điều thứ 21); việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo quy định "Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết" (điểm c, Điều thứ 70) [42]. Trong Sắc lệnh số 63-SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định "Nếu một phần ba (1/3) số hội viên Hội đồng nhân dân xã yêu cầu phúc quyết ủy ban hành chính xã thì ủy ban hành chính xã phải triệu tập ngay Hội đồng nhân dân xã để bỏ phiếu tín nhiệm" (Điều thứ 18) [9].
Phân tích về khía cạnh thuật ngữ cho thấy, phúc quyết là từ Hán - Việt, được ghép bởi hai từ là phúc và quyết: phúc có nghĩa là "lật lại, xét kỹ" [1, tr. 136]; quyết có nghĩa là "quyết định" [4, tr. 334]. Như vậy, có thể hiểu phúc quyết là việc đưa một vấn đề đã được quyết định ra để biểu quyết lại. ở nước ta, thuật ngữ phúc quyết được dùng trong trường hợp toàn dân phúc quyết và trong trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm đối với ban lãnh đạo của một cơ quan nhà nước (như ủy ban hành chính). Có thể thấy rằng, chủ thể của quyền phúc quyết có thể là toàn dân hay là một bộ phận hẹp hơn (các đại biểu Hội đồng nhân dân, trong trường hợp phúc quyết ủy ban hành chính); còn phạm vi vấn đề đưa ra phúc quyết có thể là một vấn đề quan trọng như Hiến pháp, một đạo luật hoặc cũng có thể chỉ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với ban lãnh đạo của một cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân thì có thể là những vấn đề đã được các cơ quan nhà nước thông qua hoặc cũng có thể chưa được thông qua; còn những vấn đề đưa ra phúc quyết phải là những vấn đề đã được các cơ quan nhà nước thông qua. Chính vì có sự đan xen đó nên trong trường hợp đưa ra toàn dân phúc quyết về công việc của Nhà nước hoặc của địa phương thì người ta cũng gọi đó là trưng cầu ý dân (chẳng hạn như Thụy Sĩ, việc sửa đổi Hiến pháp mặc dù đã được Quốc hội thông qua nhưng để có hiệu lực thì bản Hiến pháp sửa đổi đó phải được đa số người dân tán thành thông qua trưng cầu ý dân).
- Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến nhân dân.
Lấy ý kiến nhân dân là việc Nhà nước tổ chức để nhân dân đóng góp, tham gia ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể đưa ra lấy ý kiến. Có thể nhận thấy đây cũng là một hình thức dân chủ có tính chất giống như trưng cầu ý dân; xét về bản chất, trưng cầu ý dân là một trong những hình thức của lấy ý kiến nhân dân. Tuy nhiên, nội hàm của trưng cầu ý dân hẹp hơn so với nội hàm của lấy ý kiến nhân dân. Điểm khác biệt cơ bản giữa lấy ý kiến nhân dân với trưng cầu ý dân là ở chỗ: thông qua trưng cầu ý dân, người dân trực tiếp quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu; còn thông qua việc lấy ý kiến nhân dân, người dân chỉ đưa ra ý kiến để các cơ quan nhà nước tham khảo, việc quyết định về vấn đề đưa ra lấy ý kiến như thế nào vẫn hoàn toàn tùy thuộc vào cơ quan nhà nước. Ngoài ra, giữa lấy ý kiến nhân dân với trưng cầu ý dân còn khác nhau ở chỗ: đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân là nhân dân nhưng nhân dân ở đây không như trong trưng cầu ý dân chỉ gồm những người có quyền bầu cử (cử tri) mà bao gồm tất cả những người có khả năng và tâm huyết đóng góp ý kiến, không hạn chế bất cứ một trường hợp nào cho dù người đó có đầy đủ quyền công dân hoặc quyền bầu cử hay không; những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có khi là để xem xét quyết định về một vấn đề cụ thể (như việc lấy ý kiến về việc có nên xây dựng một công trình hay không) giống như trong trưng cầu ý dân nhưng cũng có thể chỉ là việc góp ý để hoàn chỉnh thêm các vấn đề đưa ra lấy ý kiến (như việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh); và một điểm khác biệt nữa là ở chỗ trưng cầu ý dân bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu với câu trả lời là đồng ý hay không đồng ý với vấn đề đưa ra trưng cầu, còn việc lấy ý kiến nhân dân thường không được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu, người dân góp ý bằng cách thể hiện ý kiến trong văn bản và gửi cho cơ quan tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân.
- Trưng cầu ý dân và bầu cử.
Bầu cử là một chế định pháp lý thông dụng và phổ biến ở hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam. Thuật ngữ bầu cử được sử dụng trong rất nhiều trường hợp, có thể là tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội, cũng có thể là bầu cử đại biểu Hội đồng địa phương hoặc cũng có thể là bầu người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức. Bầu cử có thể được thực hiện trong các cơ quan nhà nước, nhưng cũng có thể được thực hiện trong các tổ chức, doanh nghiệp v.v...
Trong trường hợp tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng địa phương, nhân dân trực tiếp quyết định lựa chọn người đại diện cho mình tham gia vào bộ máy nhà nước. Thông qua các cuộc bầu cử này, nhân dân thực hiện chủ quyền qua trung gian là những người đại diện cho mình, bao gồm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng địa phương. Trong các trường hợp như vậy, bầu cử và trưng cầu ý dân có nhiều nét tương đồng với nhau, thể hiện ở chỗ đều là việc nhân dân được trực tiếp quyết định; đối tượng tham gia bầu cử và đối tượng tham gia trưng cầu ý dân cũng tương tự nhau, người có quyền bầu cử thì cũng có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân và cũng đều được thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Tuy nhiên, một điểm khác biệt căn bản giữa bầu cử và trưng cầu ý dân là ở chỗ bầu cử hướng tới việc lựa chọn một cá nhân cụ thể đại diện cho mình tham gia vào bộ máy nhà nước; còn trưng cầu ý dân lại hướng tới việc lựa chọn một phương án, một mô hình hay cách giải quyết một vấn đề nhất định. Tuy trong lịch sử có một số trường hợp trưng cầu ý dân có gắn với việc lựa chọn một cá nhân cụ thể nắm giữ quyền lực nhà nước, như trong lịch sử nước Pháp, Na-pô-lê-ông đệ nhất và Na-pô-lê-ông đệ tam đã tổ chức trưng cầu ý dân về việc lên ngôi hoàng đế của mình, nhưng cùng với việc lựa chọn một vị vua cho mình, nhân dân Pháp đồng thời lựa chọn một chế độ mới thay thế chế độ cũ đã bị lật đổ [41, tr. 6].
- Trưng cầu ý dân và điều tra xã hội học.
Điều tra xã hội học là một phương pháp của bộ môn xã hội học nhằm khảo sát để nắm bắt ý kiến của những đối tượng nhất định trong xã hội về một vấn đề nhất định hoặc cũng có thể về một cá nhân cụ thể. Điểm khác biệt cơ bản giữa điều tra xã hội học với trưng cầu ý dân là ở chỗ điều tra xã hội học không phải là một hoạt động mang tính pháp lý, có thể do cơ quan nhà nước tiến hành nhưng cũng có thể do một tổ chức hoặc cá nhân bất kỳ thực hiện; kết quả của việc điều tra xã hội học chỉ mang tính chất tham khảo đối với cơ quan nhà nước mà không có giá trị bắt buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện; còn trưng cầu ý dân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành và kết quả của nó trong nhiều trường hợp buộc các cơ quan nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành.
1.1.3. Đặc điểm của trưng cầu ý dân
Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu pháp luật về trưng cầu ý dân của một số nước, chúng tôi sơ bộ rút ra một số đặc điểm cơ bản của trưng cầu ý dân như sau:
Thứ nhất, bản chất của trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp, với hình thức này nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình quyết định một số công việc của Nhà nước theo một trình tự, thủ tục pháp lý nhất định.
Thứ hai, về mặt chủ thể, trưng cầu dân ý luôn có hai loại chủ thể cơ bản: một bên là Nhà nước mà đại diện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cuộc trưng cầu ý dân; còn một bên là nhân dân.
Nhà nước đóng vai trò là chủ thể tổ chức cuộc trưng cầu ý dân. Bất kỳ một cuộc trưng cầu ý dân nào cũng đều do Nhà nước tổ chức và thực hiện nhân danh Nhà nước mà đại diện cụ thể là một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho dù đó là cuộc trưng cầu ý dân toàn quốc hay là trưng cầu ý dân ở một địa phương. ở Pháp, Ucraina, Ai Cập, chủ thể có quyền quyết định tổ chức trưng cầu ý dân là Tổng thống; ở nước ta, theo quy định tại điểm 14, Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi chung là Hiến pháp năm 1992) thì chủ thể có quyền quyết định tổ chức trưng cầu ý dân là Quốc hội và theo quy định tại điểm 12, Điều 91 của Hiến pháp năm 1992 thì ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội [46].
Chủ thể tham gia cuộc trưng cầu ý dân là nhân dân. Đúng như tên gọi của nó, nhân dân luôn đóng vai trò là chủ thể trung tâm của trưng cầu ý dân. "Nhân dân" ở đây được đặt trong mối quan hệ với Nhà nước nên mang tính phổ thông, chứ không bó hẹp trong nội bộ của một cơ quan, tổ chức, một giới hay một tầng lớp dân cư trong xã hội. Pháp luật về trưng cầu ý dân ở các nước đều quy định những người tham gia bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu ý dân là những người có đủ điều kiện tham gia bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử phổ thông. Hay nói một cách khác, những người mà theo quy định của pháp luật có quyền bầu cử thì có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân (sau đây gọi là cử tri). ở nước ta, tại Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân [46].
Thứ ba, phạm vi vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân bao giờ cũng là những vấn đề hệ trọng của quốc gia hoặc của địa phương.
Về những vấn đề cụ thể được đưa ra trưng cầu ý dân ở các nước khác nhau có quy định khác nhau, nhưng đều có điểm chung là những vấn đề có tính chất hệ trọng đối với quốc gia. Bởi vì, không bao giờ và không thể bất cứ việc gì của Nhà nước cũng có thể đưa ra trưng cầu ý dân. Trong đó, đối tượng được đưa ra trưng cầu ý dân được nhiều nước ghi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van - chinh thuc.doc
- Muc luc.doc