Luận văn Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực thi hành trong những năm gần đây đã chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”(gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị quyết số 48 NQ/TW ngày 24 tháng5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết số 48 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49 NQ/TW).

Trong cơ chế thị trường, mọi loại tài sản được mua bán ở thị trường đều được coi là hàng hóa nhưng không phải tất cả loại tài sản đều có thể được đem bán đấu giá. Dựa trên khả năng tham gia giao dịch của tài sản, có thể chia tài sản thành 3 loại: tài sản không được phép đấu giá, tài sản bán đấu giá hạn chế đối với người tham gia đấu giá và tài sản bán đấu giá không hạn chế.

Tài sản không được phép bán đấu giá là loại tài sản mà Nhà nước cấm giao dịch mua bán tự do. Ví dụ: Các loại thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002, các loại ma túy theo quy định Luật Phòng chống ma túy năm 2000, Nghị định số 67/2001/NĐ-CP và Nghị định số 133/2003/NĐ-CP, các loại pháo theo quy định của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP.

Tài sản bán đấu giá có hạn chế đối với người tham gia đấu giá là những loại tài sản mà chỉ những người đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được phép tham gia đấu giá. Ví dụ: Tài sản là nguyên liệu thuốc lá, sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001, tài sản là vàng theo quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 1999 và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003.

Tài sản bán đấu giá không hạn chế là tất cả các loại tài sản mà pháp luật không quy định về điều kiện đối với người mua và người bán loại tài sản đó, bao gồm tất cả các loại tài sản còn lại ngoài hai loại tài sản trên.

Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được pháp luật quy định. Tài sản đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia bán đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định về bán đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản.

Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay pháp luật bán đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nước luôn được sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá tại Chỉ thị số 18/2006/CT-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 về bán đấu giá tài sản thì tại nhiều địa phương một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương chưa cao ảnh hưởng đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của cá nhân, tổ chức tham gia bán đấu giá tài sản.

Do đó, để khắc phục những hạn chế thiếu sót của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản cần phải tiến hành nghiên cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản mới có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu giá tài sản thông thoáng đem lại những giá trị lợi ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân, tổ chức có tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, với những lý do trên thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này mà còn góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn đang đặt ra rất cấp bách.

 

doc91 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực thi hành trong những năm gần đây đã chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”(gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị quyết số 48 NQ/TW ngày 24 tháng5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết số 48 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49 NQ/TW). Trong cơ chế thị trường, mọi loại tài sản được mua bán ở thị trường đều được coi là hàng hóa nhưng không phải tất cả loại tài sản đều có thể được đem bán đấu giá. Dựa trên khả năng tham gia giao dịch của tài sản, có thể chia tài sản thành 3 loại: tài sản không được phép đấu giá, tài sản bán đấu giá hạn chế đối với người tham gia đấu giá và tài sản bán đấu giá không hạn chế. Tài sản không được phép bán đấu giá là loại tài sản mà Nhà nước cấm giao dịch mua bán tự do. Ví dụ: Các loại thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002, các loại ma túy theo quy định Luật Phòng chống ma túy năm 2000, Nghị định số 67/2001/NĐ-CP và Nghị định số 133/2003/NĐ-CP, các loại pháo theo quy định của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP. Tài sản bán đấu giá có hạn chế đối với người tham gia đấu giá là những loại tài sản mà chỉ những người đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được phép tham gia đấu giá. Ví dụ: Tài sản là nguyên liệu thuốc lá, sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001, tài sản là vàng theo quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 1999 và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003. Tài sản bán đấu giá không hạn chế là tất cả các loại tài sản mà pháp luật không quy định về điều kiện đối với người mua và người bán loại tài sản đó, bao gồm tất cả các loại tài sản còn lại ngoài hai loại tài sản trên. Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được pháp luật quy định. Tài sản đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia bán đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định về bán đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản. Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay pháp luật bán đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nước luôn được sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá tại Chỉ thị số 18/2006/CT-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 về bán đấu giá tài sản thì tại nhiều địa phương một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương chưa cao ảnh hưởng đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của cá nhân, tổ chức tham gia bán đấu giá tài sản. Do đó, để khắc phục những hạn chế thiếu sót của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản cần phải tiến hành nghiên cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản mới có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu giá tài sản thông thoáng đem lại những giá trị lợi ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân, tổ chức có tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, với những lý do trên thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này mà còn góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn đang đặt ra rất cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng có tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nhưng ở những gốc độ khác nhau. Bộ Tư pháp với nhiệm vụ được Chính phủ giao cho việc thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực bán đấu giá tài sản cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại hai miền (phía Bắc ở tỉnh Nghệ An và phía Nam ở tỉnh An Giang), đồng thời biên soạn các tài liệu tập huấn hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó cũng đã có một số bài viết nghiên cứu về pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam được đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp như: - Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn Mạnh (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản của tác giả Phạm Văn Chung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu của tác giả Minh Đức (số chuyên đề tháng 11/2007). - Có hay không sự khác nhau giữa bán đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất của tác giả Nguyễn Vĩnh Diện ( số 6/2007). Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù những công trình khoa học đã được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đến nay. - Xác lập quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật bán đấu giá tài sản, vai trò, các yêu cầu và tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản, qúa trình hình thành và thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta chủ yếu trong thời kỳ đổi mới cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những cơ sở lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới Nhà nước và pháp luật về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mát xít như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh thống kê. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như nghiên cứu và rà soát tài liệu. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam, do đó luận văn có những đóng góp nhất định sau: - Xác lập và đưa ra khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản, chỉ ra những đặc điểm của pháp luật này cùng những tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản. - Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó của pháp luật bán đấu giá tài sản ở nước ta. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể là bán đấu giá tài sản. - Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật trong việc hoạch định chính sách sửa đổi, bổ sung, ban hành mới pháp luật về bán đấu giá tài sản và của những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 8. Kết luận của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Khái niệm bán đấu giá tài sản và pháp luật bán đấu giá tài sản Khái niệm về bán đấu giá tài sản: Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006, trang 31 có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản. Theo quy định của pháp luật, người bán đấu giá là: doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; hội đồng bán đấu giá tài sản. Người bán đấu giá có nghĩa vụ: tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc và thủ tục quy định của pháp luật; niêm yết , thông báo công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá; bảo quản tài sản bán đấu giá khi được người có tài sản giao bảo quản hoặc quản lý; trưng bày, cho xem và cho tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá; giao tài sản bán đấu giá được giao bảo quản hoặc quản lý cho người mua được tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó; cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; thanh toán cho người có tài sản bán đấu giá số tiền bán tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật; bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi do vi phạm nghĩa vụ; định kỳ hàng năm, trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá tài sản báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trung tâm, doanh nghiệp đặt trụ sở chính và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của mình. Người bán đấu giá tài sản có quyền: yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá; yêu cầu người mua được tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Mua tài sản bằng hình thức bán đấu giá tài sản là một căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản đối với người đã mua được tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Người tham gia đấu giá tài sản có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản Nói về nguyên tắc bán đấu giá tài sản, tại điều 3 Nghị định quy định: Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Về các loại tài sản bán đấu giá, tại điều 5 của Nghị định có quy định cụ thể đó là: tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. So với quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản thì tại điều 2 Quy chế kèm Nghị định trên quy định: Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều người muốn mua tham gia trả giá theo thủ tục được quy định tại Quy chế này; Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người được mua tài sản bán đấu giá đó; Người bán đấu giá là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá chuyên nghiệp do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ; Người bán tài sản là chủ sở hữu về tài sản hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc là người có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật; Người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ chức; Người điều hành bán đấu giá là người do người bán đấu giá cử ra để điều hành cuộc bán đấu giá; Tài sản bán đấu giá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép giao dịch. Tại điều 3 của Nghị định quy định nguyên tắc bán đấu giá đó là, việc bán đấu giá tài sản thực hiện theo nguyên tắc trực tiếp công khai, trung thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 tại mục 1, phần III Chương XVIII có nêu một số quy định riêng về mua bán tài sản, mục về Hợp đồng mua bán tài sản ở chương Hợp đồng dân sự thông dụng ( Điều 456 đến Điều 459). Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Luật Thương mại năm 2005 coi đấu giá hàng hóa là một trong số hoạt động thương mại cụ thể được Luật quy định hoàn chỉnh gồm 29 điều (từ điều 185 đến điều 213). Theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (khoản 1 Điều 185). Những quy định liên quan đến đấu giá hành hóa trong Luật Thương mại năm 2005 nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả và hiệu lực pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế, hoạt động bán đấu giá đang được thực hiện đối với các hàng hóa là tài sản bị tịch thu do vi phạm hành chính hoặc để thi hành án là chủ yếu còn mua bán hàng hóa thương mại chủ yếu là người bán hàng tự mình thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa thuận. Việc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá đựơc thực hiện trên cơ sở của Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước, Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6 tháng 3.năm 1998 của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước, Thông tư số 34/2005/TT-BTC ngày 12 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá, Thông tư số 13/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 34/2005/TT-BTC quy định việc bán đấu giá chỉ liên quan đến việc xử lý tài sản nhà nước khi tài sản nhà nước có quyết định bán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá phải phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước đã nêu ở trên và Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, cụ thể là cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản phải ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản. Tóm lại, khái niệm về bán đấu giá tài sản ở nước ta từ khi đổi mới đến nay ngày càng được quy định rõ ràng cụ thể, dễ hiểu.Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/ NĐ - CP có quy định: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Song mặt hạn chế của khái niệm về bán đấu giá là chưa bao quát hết các nội dung của hoạt động này. Chẳng hạn như thế nào là tài sản để bán đấu giá, theo quy định tại điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Mặt khác điều 174, chương XI Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các loại tài sản là bất động sản và động sản có nêu bất động sản là các loại tài sản bao gồm: đất đai; nhà , công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản; điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó theo quy định tại điều 5 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì các loại tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm: Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. Việc kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án được Chính phủ quy định tại một Nghị định riêng (Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004), theo đó thẩm quyền và trách nhiệm đấu giá quyền sử dụng đất đã kê biên được quy định tại khoản 2 điều 7 như sau: đối với địa phương chưa có tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản từ chối ký hợp đồng ủy quyền đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định này và pháp luật về bán đấu giá tài sản. Bên cạnh đó Nghị định tiếp tục quy dịnh tại tại khoản 3 điều 23 như sau: đối với những địa phương chưa thành lập tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản, thì trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Chấp hành viên phải thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án. [39, tr 56]. Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì việc bán đấu giá tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm chỉ được thực hiện khi xử lý tài sản bảo đảm là động sản trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá (điều 65). Nghị định cũng quy định về thời hạn xử lý tài sản bảo đảm, trước hết tài sản bảo đảm được xử lý trong thời hạn do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm. Riêng đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay (khoản 2 điều 61, điều 62). Theo Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam, thì hàng hóa bị lưu giữ là hàng hóa do người vận chuyển bằng đường biển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam để bảo đảm việc thanh toán tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tàu và các khoản chi phí khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Người lưu giữ là người vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa khi có căn cứ làm phát sinh quyền lưu giữ hàng hóa và người lưu giữ có quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ sau sáu mươi ngày, kể từ ngày tàu biển đến cảng trả hàng nếu những ngườicó lợi ích liên quan không thanh toán đủ các khoản nợ hoặc không có bảo đảm cần thiết khác và sau khi người lưu giữ đã thực hiện thông báo lưu giữ hàng hóa. Trong trường hợp hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại mau hỏng, có khả năng gây ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng tới quốc phòng an ninh hoặc việc ký gửi hàng hóa bị lưu giữ quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hóa thì người vận chuyền có quyền căn cứ theo tính chất đặc điểm tự nhiên của hàng hóa và khả năng tài chính của mình để xử lý hàng hóa bị lưu giữ sớm hơn thời gian quy định nhưng vẫn phải thực hiện các công việc thông báo lưu giữ hàng hóa. Hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại cấm nhập khẩu hoặc cấm lưu thông trên lãnh thổ Việt Nam được xử lý theo quy định của pháp luật. Người lưu giữ có quyền ký hợp đồng ủy quyền việc bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ cho ngừơi bán đấu giá là doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc hội đồng bán đấu giá tài sản theo quy định tại các điều 34, 35, 36 và 37 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Thủ tục bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản (khoản 3 điều 5, điều 6 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP). Nghị định còn quy định trước khi ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ, người lưu giữ phải thuê giám định về số lượng, chất lượng và tổn thất (nếu có) của hàng hóa bị lưu giữ. Chi phí giám định hàng hóa bị lưu giữ được tính vào chi phí liên quan đến bán đấu giá hàng hóa. Toàn bộ tiền thu được do bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ được gửi vào “Tài khoản tiền quản lý, giữ hộ” của người lưu giữ tại Ngân hàng được phép hoạt động ở Việt Nam. Việc chi trả số tiền này được thực hiện theo thứ tự ưu tiên trước hết cho các khoản thuế, lệ phí, các chi phí liên quan đến việc ký gửi và bán đấu giá hàng hóa (điều 8, điểm a khoản 1 điều 9 Nghị định số 46/2006/NĐ-CP). Tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, ngày 12.6.2008 Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 04/2008/L-CTN công bố Luật. Đây là lần đầu tiên các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được quy định thống nhất trong một văn bản Luật, tạo tiền đề pháp lý cao trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước. Theo quy định tại điều 1 của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì luật này chỉ điều chỉnh đối với những tài sản nhà nước phục vụ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị như: trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất, quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc,cơ sở hoạt động sự nghiệp; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc… Đối với tài sản nhà nước là tiền, hàng hóa, vật tư, tài sản dự trử quốc gia tại cơ quan, đơn vị, tổ chức; tài sản là đất đai tài nguyên thiên nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan