Luận văn Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam

Trong những năm qua cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước đã có những thay đổi đáng kể. Đổi mới khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và yêu cầu cần phải được tiến hành với nhịp độ nhanh nhưng vững chắc và có hiệu quả. Việc tìm ra mô hình tổ chức mới nhằm phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên cần thiết, nhất là khi một loạt mô hình tổ chức như tổng công ty đã bộc lộ ngày càng rõ sự bất cập và không thích ứng của nó đối với nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam hiện nay.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 24/9/2001 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng ngày 3/2/2000 đã khẳng định: "Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa". Nghị quyết đã đưa ra một bước đột phá trong chính sách đổi mới và cải cách doanh nghiệp nhà nước đó là tiến hành cổ phần hóa "kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm. ".

Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra theo phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tại Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 13/5/2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty nhà nước lớn trong năm 2004. Theo quyết định này, ba tổng công ty lớn đầu tiên trong các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cổ phần hóa gồm: Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (sau đây gọi là VINACONEX) (Bộ Xây dựng), Tổng công ty Thương mại - Xây dựng (Bộ Giao thông Vận tải); Tổng công ty Điện tử - Tin học (Bộ Công nghiệp). Ngoài ra, Thủ tướng cũng đã cho phép Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng quốc doanh đầu tiên trong hệ thống các ngân hàng được tiến hành thí điểm cổ phần hóa.

Khác với việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước hoặc bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện trong thời gian qua, cổ phần hóa tổng công ty nhà nước là một vấn đề hoàn toàn mới và chưa được thực hiện trên thực tế. Nhiều vấn đề như phương thức thực hiện cổ phần hóa, xác định giá trị của toàn tổng công ty, tên gọi, mô hình tổ chức và hoạt động của tổng công ty sau cổ phần hóa. chưa được xác định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề rất cấp thiết, góp phần triển khai cổ phần hóa thành công các tổng công ty khác. Chính vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: " Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam " làm luận văn thạc sĩ của mình.

 

doc109 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong những năm qua cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước đã có những thay đổi đáng kể. Đổi mới khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và yêu cầu cần phải được tiến hành với nhịp độ nhanh nhưng vững chắc và có hiệu quả. Việc tìm ra mô hình tổ chức mới nhằm phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên cần thiết, nhất là khi một loạt mô hình tổ chức như tổng công ty đã bộc lộ ngày càng rõ sự bất cập và không thích ứng của nó đối với nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 24/9/2001 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng ngày 3/2/2000 đã khẳng định: "Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa". Nghị quyết đã đưa ra một bước đột phá trong chính sách đổi mới và cải cách doanh nghiệp nhà nước đó là tiến hành cổ phần hóa "kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... ". Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra theo phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tại Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 13/5/2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty nhà nước lớn trong năm 2004. Theo quyết định này, ba tổng công ty lớn đầu tiên trong các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cổ phần hóa gồm: Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (sau đây gọi là VINACONEX) (Bộ Xây dựng), Tổng công ty Thương mại - Xây dựng (Bộ Giao thông Vận tải); Tổng công ty Điện tử - Tin học (Bộ Công nghiệp). Ngoài ra, Thủ tướng cũng đã cho phép Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng quốc doanh đầu tiên trong hệ thống các ngân hàng được tiến hành thí điểm cổ phần hóa. Khác với việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước hoặc bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện trong thời gian qua, cổ phần hóa tổng công ty nhà nước là một vấn đề hoàn toàn mới và chưa được thực hiện trên thực tế. Nhiều vấn đề như phương thức thực hiện cổ phần hóa, xác định giá trị của toàn tổng công ty, tên gọi, mô hình tổ chức và hoạt động của tổng công ty sau cổ phần hóa... chưa được xác định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề rất cấp thiết, góp phần triển khai cổ phần hóa thành công các tổng công ty khác. Chính vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: " Hoàn thiện khung phỏp luật về cổ phần húa tổng cụng ty nhà nước ở Việt Nam " làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được sự quan tâm đặc biệt trong lý luận và thực tiễn hiện nay ở nước ta. Trong hơn 10 năm qua, đã có nhiều văn bản của Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành được ban hành về công tác cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập và nghiên cứu chuyên sâu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các công trình nghiên cứu đó đều thống nhất ở sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hóa và hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa. Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: - Trương Văn Bân, Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; - Đoàn Văn Hạnh: Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998; - Nguyễn Thị Thu Vân, Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; - Hoàng Kim Huyền, Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, 2003; - PGS, TS Lê Hồng Hạnh, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004; - Lê Văn Tâm (Chủ biên), Cổ phần hóa và quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004... Tất cả các công trình nghiên cứu kể trên mới chỉ nghiên cứu việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước đơn lẻ độc lập, doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty hoặc cổ phần hóa một bộ phận trực thuộc doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về đề tài "Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam" nói trên. Khác với cổ phần hóa một doanh nghiệp thông thường, cổ phần hóa tổng công ty nhà nước có tính chất phức tạp hơn nhiều. Bởi vì, tổng công ty nhà nước ở Việt Nam là một tổ hợp nhiều doanh nghiệp hạch toán độc lập, có hình thức pháp lý khác nhau. Nhiều vấn đề rất mới mẻ như nhận diện tổng công nhà nước được cổ phần hóa, phương thức cổ phần hóa, quy trình cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp của tổng công ty, mô hình tổ chức, quản lý và điều hành doanh nghiệp sau cổ phần hóa… chưa được nghiên cứu cụ thể. Đây là cơ hội thuận tiện để tác giả, xuất phát từ thực tiễn công tác của mình, mạnh dạn đề xuất những ý tưởng nhưng cũng đồng thời là một khó khăn cho tác giả trong quá trình nghiên cứu vì không được kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. 3. Mục đích của đề tài và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam. Do cổ phần hóa tổng công ty nhà nước là một vấn đề mới và hiện nay mới chỉ có ba tổng công ty 90 và một tổng công ty nhà nước loại đặc biệt (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm cổ phần hóa, nên phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu thực tiễn thí điểm cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX (một trong ba tổng công ty 90 được thí điểm cổ phần hóa và là tổng công ty hội tụ đầy đủ nhất những điều kiện chín muồi cho việc cổ phần hóa tổng công ty nhà nước). Đây cũng là nơi tác giả đang công tác và do vậy sẽ thuận lợi cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình. Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ khái niệm và các đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; - Thực trạng các chính sách và pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước; - Thực trạng triển khai thí điểm cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX và những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thí điểm cổ phần hóa (một trong ba tổng công ty được thí điểm cổ phần hóa); - Kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước trong đó có các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn ở một số nước trên thế giới. - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở bám sát những chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước trong đó có các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Luận văn vận dụng phương pháp luận, các quy luật và phạm trù của triết học Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu mà hạt nhân là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp cũng được vận dụng kết hợp giải quyết những vấn đề mà đề tài tiếp cận nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn Luận văn được triển khai trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm từ việc thí điểm triển khai cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX. Vì vậy, trong luận văn sẽ thể hiện những ý tưởng trong quá trình thực hiện cổ phần hóa tổng công ty nhà nước; những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa tổng công ty nhà nước và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng, những ý tưởng của mình sẽ được xem xét và ứng dụng trong thực tế. Do những ý tưởng khoa học trong luận văn xuất phát chính ngay trong quá trình hoạt động, công tác thực tiễn của tác giả nên nó rất gần với tiếng nói của các tổng công ty thực hiện thí điểm cổ phần hóa và điều này sẽ rất thuận lợi cho việc áp dụng tại các tổng công ty nhà nước sẽ được cổ phần hóa tiếp trong tương lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chương 2: Thực trạng các chính sách và quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam và một số kiến nghị Chương 1 Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và Pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 1.1. Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Hiện nay, kinh tế nhà nước đã trở thành một bộ phận quan trọng có tác dụng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Khu vực kinh tế nhà nước giữ một vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện chức năng kinh tế, vừa thực hiện chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng trưởng và ổn định kinh tế của mỗi nước. Do vậy, không một nước nào lại không sử dụng các doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng nhằm thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích xã hội. Tuy nhiên, kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển của nó đã bộc lộ nhiều hạn chế, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Việc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước để thích ứng với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường là một yêu cầu đặt ra đối với tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát triển. Một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hóa ở các nước này đã góp phần khắc phục hạn chế và yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, là một đòi hỏi khách quan nhằm để đáp ứng những yêu cầu về cải cách, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước cho phù hợp với các yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Xét về bản chất kinh tế, cổ phần hóa là việc nhà nước hoặc giữ nguyên vốn hiện có trong doanh nghiệp nhưng phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn, hoặc bán bớt một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng là tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý và cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán. Tại Việt Nam, Điều 3, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ đã quy định cụ thể các hình thức cổ phần hóa công ty nhà nước gồm có: - Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. - Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. - Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn [23, tr. 2]. Xét về mặc cấu trúc sở hữu, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước, chuyển doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu với mục đích bảo đảm sự tồn tại và phát triển không ngừng của doanh nghiệp theo sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sự chuyển hóa này không phải chỉ là sự thay đổi về tên gọi mà là sự thay đổi căn bản trên ba mặt: Thứ nhất, chuyển hóa quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu). Từ đó dẫn đến việc thay đổi cả quyền quản lý điều hành doanh nghiệp, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa ba quyền liên quan đến vốn và tài sản của doanh nghiệp. Đây cũng là điều kiện thiết yếu để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ. Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ gồm đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban điều hành đã có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau, công ty cổ phần có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ ba, thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp nhà nước bị chi phối toàn diện bởi nhà nước (nhà nước là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ trước đây) sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao. Điều 1, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16//11/2004 của Chính phủ đã nêu rõ mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần là: 1. Chuyển đổi công ty nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 2. Đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp [23, tr. 1]. Xét về mặt pháp lý, cổ phần hóa là việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình thực hiện đa dạng hóa sở hữu, chuyển các doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu của nhà nước thành công ty cổ phần thuộc sở hữu của các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của cổ phần hóa Qua khái niệm trên, có thể thấy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có những đặc điểm pháp lý sau: Thứ nhất, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần hay còn gọi là đa sở hữu. Trước khi cổ phần hóa, toàn bộ vốn của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có hội đồng quản trị) hoặc giám đốc (đối với doanh nghiệp không có hội đồng quản trị) là đại diện sở hữu trực tiếp của nhà nước tại doanh nghiệp. Họ không phải là chủ sở hữu thực sự mà chỉ là người được nhà nước giao quyền quản lý và khai thác tài sản mà nhà nước đã đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh và các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước giao. Khi tiến hành cổ phần hóa, nhà nước sẽ tiến hành xác định giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, xác định số lượng cổ phiếu phát hành thông qua hình thức bán một phần vốn nhà nước hoặc giữ nguyên phần vốn nhà nước và phát hành cổ phiếu ra bên ngoài để thu hút vốn cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp bán cổ phiếu của mình cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Những người mua cổ phiếu trở thành cổ đông của công ty cổ phần, có quyền sở hữu chung đối với công ty, tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp trong vốn điều lệ, đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty. Các cổ đông góp vốn sẽ thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua đại hội cổ đông và được giới thiệu đại diện tham gia ứng cử hội đồng quản trị của công ty cổ phần nếu đủ điều kiện do điều lệ công ty quy định. Hiện nay, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế; còn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam [23, tr. 2]. Việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước từ hình thức sở hữu đơn nhất sang hình thức đa sở hữu đã thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp thay đổi căn bản phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vì lợi ích của các cổ đông công ty và sự phát triển lâu dài, bền vững của công ty cổ phần. Thứ hai, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ không tồn tại dưới loại hình doanh nghiệp nhà nước nữa mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần. Khác với doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa, doanh nghiệp sau khi chuyển đổi hình thức hoạt động sang công ty cổ phần thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó được xác định theo pháp luật về công ty cổ phần, được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp từ địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ, cơ chế quản lý đến việc thành lập, giải thể, phá sản đều được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa được thực hiện theo cơ chế chủ quản có nghĩa là cơ chế cấp trên cấp dưới quan hệ chủ yếu mang nặng cơ chế hành chính, thiếu sự bình đẳng về lợi ích. Các quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp rất khắt khe, làm triệt tiêu quyền chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp. Khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan cao nhất của công ty là đại hội đồng cổ đông. Công ty được quản lý bởi hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ đông bầu ra và được điều hành bởi giám đốc (hoặc tổng giám đốc) được hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng thuê. Các quy định của Luật Doanh nghiệp về quản lý công ty cổ phần có tính chất mềm dẻo, linh hoạt và tạo cơ chế cho công ty cổ phần được phát huy quyền chủ động trong hoạt động của doanh nghiệp vì lợi ích của các công ty và của các cổ đông công ty. Thứ ba, quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Việc bán cổ phần được áp dụng cho các đối tượng sau: + Bán cổ phần cho những người lao động trong doanh nghiệp: Khi xây dựng phương án bán cổ phần, doanh nghiệp sẽ dành một số cổ phần để bán cho những người quản lý và những người lao động theo giá ưu đãi tương ứng với thời gian công tác của họ tại doanh nghiệp. Việc bán cổ phần cho những người lao động với giá ưu đãi nhằm mục đích ghi nhận những đóng góp của họ trong doanh nghiệp trong thời gian qua đồng thời thu hút sự tham gia của họ vào công tác quản lý doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm và tinh thần sáng tạo của họ trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Việc bán cổ phần như vậy có ý nghĩa xã hội rất lớn và cũng là một trong những lý do để thu hút người lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp. + Bán cổ phần cho một số nhà đầu tư chiến lược: Trong phương án bán cổ phần, doanh nghiệp sẽ xác định một số lượng cổ phần phát hành cho một số nhà đầu tư chiến lược. Các cổ đông chiến lược là những nhà đầu tư có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp về tài chính, nguồn nguyên liệu thiết yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm..., góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Các nhà đầu tư chiến lược được hưởng một mức giá ưu đãi hơn so với các nhà đầu tư thông thường khác. Tuy nhiên, số lượng cổ phần bán cho các nhà đầu tư chiến lược sẽ bị giới hạn ở một mức độ nhất định. + Bán cổ phần của doanh nghiệp ra công chúng: Nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng, thường được thực hiện thông qua một tổ chức tài chính trung gian hoặc sàn giao dịch chứng khoán. Thông qua việc bán cổ phần ra công chúng, các nhà đầu tư các cá nhân và tổ chức có thể mua được cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Để thu hút được công chúng tham gia mua cổ phần phát hành của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tỷ lệ sinh lợi cao đồng thời có các biện pháp bảo vệ quyền lợi của các cổ đông tham gia mua cổ phần đặc biệt là các cổ đông thiểu số. Thông qua việc bán cổ phần của doanh nghiệp ra công chúng, doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa có thể thu hút sự tham gia mua cổ phần của những người có trình độ và kinh nghiệm về kỹ thuật, tài chính, quản lý và thương mại. Họ là những người quản lý giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao và hoạt động thực sự vì lợi ích của doanh nghiệp. Cổ phần hóa thực sự là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một giải pháp quan trọng để đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, hình thành các doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao không chỉ tại thị trường Việt Nam mà còn tại thị trường nước ngoài. Cho đến nay, việc cổ phần hóa chỉ được thực hiện và áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước đơn lẻ hoặc bộ phận doanh nghiệp nhà nước với quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, cơ cấu tổ chức đơn giản, giá trị phần vốn nhà nước thấp và số lượng lao động ít. Tuy nhiên, cổ phần hóa đối với các tổng công ty nhà nước lớn là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Tính phức tạp của cổ phần hóa tổng công ty nhà nước thể hiện ở chỗ tổng công ty nhà nước có quy mô lớn, thậm chí rất lớn; phạm vi và lĩnh vực hoạt động rộng, đa dạng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài; cơ cấu tổ chức phức tạp bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm doanh nghiệp với các loại hình khác nhau như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh; giá trị phần vốn nhà nước tại tổng công ty nhà nước cũng rất lớn; đông lao động... Nhiều vấn đề như phương thức cổ phần hóa tổng công ty nhà nước, xác định giá trị doanh nghiệp của tổng công ty với tư cách là tổng hợp của nhiều doanh nghiệp, xác định giá trị thương hiệu chung của tổng công ty và các đơn vị thành viên... là những vấn đề cần làm rõ và có cách hiểu thống nhất, tạo điều kiện cho việc triển khai cổ phần hóa thành công tổng công ty nhà nước. Do đó, việc lựa chọn một số tổng công ty nhà nước để thí điểm cổ phần hóa sẽ làm tiền đề cho việc đúc rút kinh nghiệm và triển khai cổ phần hóa các tổng công ty tiếp theo nếu việc thí điểm này thành công. 1.2. Thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty nhà nước ở Việt Nam 1.2.1. Sự cần thiết phải cổ phần hóa tổng công ty nhà nước Các tổng công ty nhà nước được thành lập chủ yếu dựa vào việc tập hợp mang tính chất thu gom các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ ngang theo quyết định hành chính nhằm làm giảm đầu mối quản lý. Do đó, tổng công ty chưa thực sự thành một thể thống nhất, phát huy được sức mạnh tổng thể của toàn tổng công ty; chưa đạt được mục tiêu khắc phục sự rời rạc, tạo sự liên kết giữa các đơn vị thành viên gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường, chiến lược kinh doanh...; trong nội bộ cơ quan quản lý và điều hành tổng công ty còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, cản trở quá trình phát triển kinh doanh của tổng công ty. Đồng thời, các cơ chế, chính sách đầu tư, tài chính đối với tổng công ty, doanh nghiệp thành viên cũng chưa tạo điều kiện để tổng công ty phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên. Vì vậy, cho đến nay chúng ta chưa có các tập đoàn kinh tế mạnh. Tổng công ty chưa có được những đặc trưng của một doanh nghiệp có khả năng và tạo điều kiện để phát triển các đơn vị thành viên, bảo đảm các đơn vị này độc lập tương đối trong mối liên hệ với tổng công ty và tạo điều kiện phát triển chung tổng công ty. Ngoài ra, các quy định của pháp luật về tổng công ty nhà nước còn thể hiện một số bất cập sau: - Thứ nhất, không tách bạch rõ tư cách pháp nhân của tổng công ty và của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập tương tự như tư cách pháp nhân của công ty mẹ và công ty con dẫn đến tình trạng pháp nhân (doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập) trong pháp nhân (tổng công ty) làm quan hệ về vốn, tài sản, lợi ích trong nội bộ tổng công ty không rõ. Luật quy định nhà nước giao vốn cho tổng công ty sau đó vốn được giao cho các đơn vị thành viên nên dẫn đến tình trạng không rõ tính chất pháp lý của hành vi giao vốn chỉ là uỷ quyền quản lý, sử dụng vốn cho doanh nghiệp thành viên còn tổng công ty vẫn chịu trách nhiệm cuối cùng hay vốn sau khi giao thuộc về pháp nhân doanh nghiệp thành viên và tổng công ty có quyền và nghĩa vụ như cổ đông nắm toàn bộ vốn điều lệ của doanh nghiệp. Hơn nữa, do vốn, tài sản của tổng công ty đã nằm ở doanh nghiệp thành viên trước khi thành lập tổng công ty nên thực chất tổng công ty giao cái mà tổng công ty không có và sau khi giao vốn thì tổng công ty

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van- chinh thuc.doc
  • docBia- ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan