Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam

Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm 1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống.

Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư luận xã hội Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và một số cơ quan chuyên môn khác . Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội.

Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.

Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.

Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.

Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam".

 

doc135 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoµn thiÖn ®Þa vÞ ph¸p lý cña chÊp hµnh viªn trong thi hµnh ¸n d©n sù t¹i ViÖt Nam Hµ Néi – 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam 8 1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên 30 1.3. Tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam 33 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN VÀ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH ĐÓ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 36 2.1. Quá trình hình thành và phát triển công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam 36 2.2. Pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam 45 2.3. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự từ năm 2004 đến nay 78 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 114 3.1. Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp 114 3.2. Giải pháp về hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên 115 KẾT LUẬN 125 NHỮNG BÀI BÁO ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ NĂM 2008-2009 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 127 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128 Danh môc c¸c b¶ng Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự (về số việc) 81 Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự (về tiền) 81 Bảng 2.3: Kết quả tự nguyện thi hành án qua các năm 93 Bảng 2.4: Cường độ lao động của Chấp hành viên 108 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm 1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội. Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay. Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên quan đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về đổi mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh Tuấn, với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến sỹ luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”. Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay. - Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, địa vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp luật học so sánh. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. - Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; - Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng. - Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật cũng như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở đào tạo Luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là một trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền và theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ việc và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ này muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được những người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án, quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các tổ chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh doanh thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những phán quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự. Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà nước quy định. Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp. Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là những quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hành án, quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án... Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người phải thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận này phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án... Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trình tự, thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất. Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, quyết định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo một thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định. Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá một số công việc liên quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng cho bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ công tác thi hành án dân sự thì chủ trương xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự thành một điều trong Luật thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiện có hiệu quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau đó tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của việc thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế định Thừa phát lại) chưa được triển khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định về xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hành án dân sự mà chỉ nên quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi hành Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và ngày 24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh* Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành ngày 09/9/2009. , trong đó quy định những công việc của Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việc tổ chức thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ chức khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012. Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
Tài liệu liên quan