Nước ta hiện vẫn là một nước nông nghiệp, nông dân đang chiếm gần 74% dân số và chiếm đến 60,7% lao động xã hội. “Thu nhập hộ nông dân hịên chỉ bằng 1/3 so với dân cư khu vực thành thị, ở vùng núi có tỉ lệ mù chữ trên 22,6%, hiện còn 2,25 triệu hộ nghèo (90% ở nông thôn), 300.000 hộ thường xuyên thiếu đói, 400.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống du canh” [44, tr.248]. Trong khi đó nông nghiệp nông thôn đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân với 20% GDP, trên 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, các chính sách phát triển nông nghiệp trước đây thường thiên về thúc đẩy phát triển ngành, có phần xem nhẹ vai trò, lợi ích của chủ thể chính, động lực chính của phát triển nông nghiệp là nông dân. Phần lớn các chính sách hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa các vùng, các lĩnh vực trong ngành, giữa nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để mối quan hệ giữa các yếu tố chính của mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn Đây là nguyên nhân chủ yếu, khiến cho sau nhiều thập kỷ chuyển đổi nền nông nghiệp sang thị trường, đến nay về cơ bản nông nghiệp, nông thôn Việt Nam vẫn mang tính khép kín, tự cấp tự túc.
Khi nước ta gia nhập WTO, tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế lớn của khu vực và thế giới, sức ép của hội nhập và phát triển ngày một lớn, đặt ra yêu cầu rất cao đối với nền kinh tế nước ta, trong đó lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực phải đối mặt với nhiều thách thức nhất. Trước yêu cầu phát triển và hội nhập hiện nay, thực hiện mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã đến lúc đòi hỏi phải có nhiều chính sách đột phá và đồng bộ nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển đất nước.
Ở nước ta thời gian qua, Nhà nước đã phối hợp với các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội trong nước đã có nhiều nỗ lực nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội ở nông thôn. Như, Chương trình định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới (năm 1968); Chương tình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327/CT) và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu vùng xa. Chủ trương chính sách xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ba chương trình: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; CNH và HDH nông nghiệp, nông thôn; xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư,.
Một trong số chương trình lớn có sự phối hợp, tài trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Chương trình 135 về giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn; các chương trình quốc gia lớn nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân đã thu hút trên 13,07 triệu hộ với trên 58,41triệu lượt người ở nông thôn tham gia; các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về đất đai, sản xuất nông sản hàng hoá, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, đã và đang đưa nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá- tập trung - quan liêu - bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự hiệu quả, thiếu bền vững, ở nhiều mặt có thể nói chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, chưa đưa sản xuất nông nghiệp ở nông thôn thành sản xuất hàng hoá thực sự.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là chưa định hướng rõ mô hình phát triển, thể hiện ở việc nhận thức chưa thấu đáo các vấn đề như: Tầm nhìn (mục tiêu), mô hình phát triển và các nguồn lực và thiếu sự xác định lợi ích thực tế của các bên liên quan trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Vì vậy dẫn đến tình trạng thiếu cụ thể, thiếu tính khoa học trong quy trình hoạch định và triển khai chính sách; có nhiều chính sách, nhưng hiệu quả kinh tế, hiệu ứng xã hội của các chính sách không tương xứng với nguồn lực đầu tư, hoặc thiếu bền vững.
119 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta hiện vẫn là một nước nông nghiệp, nông dân đang chiếm gần 74% dân số và chiếm đến 60,7% lao động xã hội. “Thu nhập hộ nông dân hịên chỉ bằng 1/3 so với dân cư khu vực thành thị, ở vùng núi có tỉ lệ mù chữ trên 22,6%, hiện còn 2,25 triệu hộ nghèo (90% ở nông thôn), 300.000 hộ thường xuyên thiếu đói, 400.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống du canh” [44, tr.248]. Trong khi đó nông nghiệp nông thôn đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân với 20% GDP, trên 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, các chính sách phát triển nông nghiệp trước đây thường thiên về thúc đẩy phát triển ngành, có phần xem nhẹ vai trò, lợi ích của chủ thể chính, động lực chính của phát triển nông nghiệp là nông dân. Phần lớn các chính sách hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa các vùng, các lĩnh vực trong ngành, giữa nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để mối quan hệ giữa các yếu tố chính của mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn … Đây là nguyên nhân chủ yếu, khiến cho sau nhiều thập kỷ chuyển đổi nền nông nghiệp sang thị trường, đến nay về cơ bản nông nghiệp, nông thôn Việt Nam vẫn mang tính khép kín, tự cấp tự túc.
Khi nước ta gia nhập WTO, tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế lớn của khu vực và thế giới, sức ép của hội nhập và phát triển ngày một lớn, đặt ra yêu cầu rất cao đối với nền kinh tế nước ta, trong đó lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực phải đối mặt với nhiều thách thức nhất. Trước yêu cầu phát triển và hội nhập hiện nay, thực hiện mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã đến lúc đòi hỏi phải có nhiều chính sách đột phá và đồng bộ nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển đất nước.
ở nước ta thời gian qua, Nhà nước đã phối hợp với các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội trong nước đã có nhiều nỗ lực nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội ở nông thôn. Như, Chương trình định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới (năm 1968); Chương tình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327/CT) và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu vùng xa. Chủ trương chính sách xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ba chương trình: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; CNH và HDH nông nghiệp, nông thôn; xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư,...
Một trong số chương trình lớn có sự phối hợp, tài trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Chương trình 135 về giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn; các chương trình quốc gia lớn nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân đã thu hút trên 13,07 triệu hộ với trên 58,41triệu lượt người ở nông thôn tham gia; các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về đất đai, sản xuất nông sản hàng hoá, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại,… đã và đang đưa nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá- tập trung - quan liêu - bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự hiệu quả, thiếu bền vững, ở nhiều mặt có thể nói chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, chưa đưa sản xuất nông nghiệp ở nông thôn thành sản xuất hàng hoá thực sự.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là chưa định hướng rõ mô hình phát triển, thể hiện ở việc nhận thức chưa thấu đáo các vấn đề như: Tầm nhìn (mục tiêu), mô hình phát triển và các nguồn lực và thiếu sự xác định lợi ích thực tế của các bên liên quan trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Vì vậy dẫn đến tình trạng thiếu cụ thể, thiếu tính khoa học trong quy trình hoạch định và triển khai chính sách; có nhiều chính sách, nhưng hiệu quả kinh tế, hiệu ứng xã hội của các chính sách không tương xứng với nguồn lực đầu tư, hoặc thiếu bền vững.
Góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết của Đảng về nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống, đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn, việc cần làm trong giai đoạn hiện nay là xây dựng cho được các mô hình nông thôn mới đủ đáp ứng yêu cầu phát huy nội lực của nông dân, nông nghiệp và nông thôn, đủ điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, cần có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn mang tính đồng bộ, nhưng trong đó chính sách có ý nghĩa quyết định là chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới.
Đây là chính sách về một mô hình phát triển của nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời phải giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, rời rạc, ngẫu hứng hoặc duy ý chí trong các chính sách nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói riêng từ trước đến nay.
Quảng Nam là một tỉnh nghèo, không nhiều thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên và điều kiện khí hậu, lại vừa mới chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (được 10 năm), cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn thiếu hụt, trình độ phát triển hiện còn thấp so với bình quân cả nước; cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm và các dịch vụ công cộng thiếu và yếu; số lượng gia đình chính sách xã hội tương đối đông…Để có bước phát triển nhanh, bền vững, hiện nay tỉnh đang cố gắng hoạch định và thực thi nhiều chính sách kinh tế xã hội mang tính bứt phá. Trong nông nghiệp và nông thôn, là một tỉnh nông nghiệp, các cơ quan hoạch định chính sách đang tìm tòi mô hình phát triển nông thôn thật sự phù hợp, có khả năng đảm bảo ổn định chính trị, kinh tế xã hội, phát huy được các truyền thống lịch sử văn hoá, thích ứng nhanh với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước và nông nghiệp nông thôn…Mô hình nông thôn như vậy, thể hiện trong ý tưởng của TƯ Đảng, Chính phủ và Bộ NN & PTNT, cũng như của Hội Nông dân Việt Nam là Mô hình nông thôn mới.
Xây dựng mô hình nông thôn mới đòi hỏi phải có chính sách cụ thể. Hiện nay, tuy ý tưởng đã có, Bộ NN & PTNT đã có những chỉ thị, hướng dẫn, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu và đã có một số đề án thí nghiệm nhằm đưa ra những tiêu chí của mô hình này…Nhưng vẫn chưa có một chính sách cụ thể. Đối với một địa phương như Quảng Nam, chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong thực hiện các nhiệm vụ mang tính chiến lược của tỉnh nhà.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề "Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam" làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học trên thế giới cũng như ở nước ta.
Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình: “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà xuất bản nông nghiệp ấn hành năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Cuốn sách đã đề cập những vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hoá.
Điều đặc biệt cần lưu ý là công trình này đã xem xét nền nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá gắn liền với thương mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng nêu lên những mô hình thành công và thất bại trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân.
Công trình: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các nước và Việt Nam” của các tác giả Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nxb Hà Nội ấn hành năm 2000. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những kết quả bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam. Những điểm đáng chú ý của công trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn nước ta hiện nay như, tương lai của các trang trại nhỏ; nông dân với khoa học; hệ tư tưởng của nông dân ở thế giới thứ ba; các hình thức sở hữu đất đai; những mô hình tiến hoá nông thôn ở các nước nông nghiệp trồng lúa... Đặc biệt lưu ý là những kết quả nghiên cứu của công trình về làng truyền thống ở Việt Nam; quan hệ làng xóm - Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
ở trong nước, có hàng loạt công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ngoài. Theo hướng này, một số nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta như PGS,TS. Chu Hữu Quý; GS,TS. Nguyễn Thế Nhã; GS,TS. Phạm Thị Mỹ Dung, GS. Đoàn Trọng Truyến, PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc... đã có những công trình nghiên cứu công phu và có giá trị.
Điểm chung nhất của các nghiên cứu này và sau khi phân tích thực tiễn giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ đạo chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đều cố gắng gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận dụng cho giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam.
Tác phẩm: “Gia nhập WTO, Trung Quốc làm gì? được gì?” do TS. Nguyễn Kim Bảo chủ biên, xuất bản năm 2004. Những phân tích, đánh giá của công trình này về những việc đã làm của Trung Quốc, những kết quả bước đầu cũng như những vấn đề đặt ra cần được giải quyết về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, đã cung cấp những thông tin có giá trị tham khảo cho Việt Nam. Đặc biệt trong công trình này, tác giả cảnh báo những thách thức, những khó khăn trong phát triển kinh tế - đặc biệt là phát triển nông nghiệp nông thôn trước và sau khi Trung Quốc gia nhập WTO.
Tác phẩm: “Vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp của Thái Lan” của các tác giả GS, TS. Nguyễn Thế Nhã và TS. Hoàng Văn Hoan do Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 1995. Trong công trình này các tác giả đã đi sâu phân tích quá trình hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính sách nông nghiệp của Thái Lan từng thời kỳ. Trong đó một số nội dung được các tác giả đề cập có giá trị tham khảo rất tốt cho Việt Nam như chính sách phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, chính sách xuất khẩu nông sản, chính sách tín dụng và đặc biệt là những chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp.
Những công trình liên quan đến chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta có khối lượng rất đồ sộ, cách thức tiếp cận cũng rất đa dạng.
Công trình: “Phát triển nông thôn
" do GS. Phạm Xuân Nam (chủ biên) Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1997, là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển nông thôn. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xoá đói giảm nghèo… Trong lúc phân tích những thành tựu, yếu kém và thách thức đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, các tác giả đã chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ đạo của Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn.
Về mô hình nông nghiệp, nông thôn trong lịch sử dân tộc là vấn đề rất được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây cũng là vấn đề không thể thiếu vắng khi xác định mô hình nông thôn mới hiện nay.
Công trình: “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do GS. Phan Đại Doãn và PGS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1994, là công trình nghiên cứu những vấn đề lịch sử trong phát triển nông thôn nước ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm của Nhà nước trong các thời kỳ về quản lý làng xã và xây dựng thiết chế chính trị - xã hội nông thôn nước ta, các tác giả đã trình bày khá toàn diện về quản lý nông thôn nước ta trong lịch sử như vấn đề Nhà nước quản lý nông thôn trong các thế kỷ XVI - XVIII; nhà Nguyễn đối với vấn đề nông thôn trong thế kỷ XIX; phát triển nông thôn trong thời kỳ Pháp thuộc (1945 - 1954); cơ cấu quản lý hành chính làng xã Việt Nam từ 1954 - 1975. Công trình còn đề cập mô hình phát triển làng xã nông thôn Việt Nam ở các vùng cụ thể ở nước ta nhất là ở Bắc bộ và Nam bộ. Công trình đã cung cấp những sử liệu rất có gía trị về vai trò của Nhà nước, tính cộng đồng và tính bền vững của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác động những việc hình thành thiết chế làng xã và mô hình hoạt động của chúng.
Những nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng cũng được các tác giả Việt Nam rất quan tâm. GS. Hồ Văn Thông; PGS, TS. Phạm Chi Mai; PGS,TS. Ngô Đức Cát v.v... đã trình bày những công trình có tính lý thuyết về hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hộichính trị - xã hội
.
Công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê, năm 2003. Đây là công trình nghiên cứu dài hơi rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có tính thuyết phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm, công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu nông sản... đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có tính thuyết phục.
Công trình nghiên cứu của PGS, TS. Nguyễn Văn Bích và TS. Chu Tiến Quang do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1996 với tiêu đề: “Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” đã luận giải nhiều nội dung liên quan đến chủ đề nghiên cứu như khái niệm về chính sách, các nội dung của chính sách kinh tế và quá trình thay đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới và những tác động của chúng.
Công trình nghiên cứu: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ Chính trị” do PGS,TSKH Lê Đình Thắng chủ biên do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên quan đến chủ đề nghiên cứu như phân tích quá trình phát triển nông nghiệp của Việt Nam dưới sự tác động của hệ thống chính sách, đi sâu phân tích một số chính sách cụ thể như chính sách đất đai, chính sách phân phối trong phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta.
Về những mô hình hợp tác xã nông nghiệp nước ta, được coi là một mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết, cũng được một tập thể các nhà khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu khá sâu sắc trong Đề tài tổng kết thực tiễn "Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" (2003) do GS,TS Lưu Văn Sùng làm chủ nhiệm
Đặc biệt công trình nghiên cứu do PGS. TS. Vũ Trọng Khải chủ trì được Nxb nông nghiệp ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu công phu về mô hình phát triển của nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu này được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước do tác giả làm chủ nhiệm với tiêu đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại”.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp Việt Nam cũng đã bước đầu được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Một số tác giả như GS,TS Bùi Xuân Lưu; GS,TS Nguyễn Điền, TS. Nguyễn Từ; Th.s Nguyễn Thu Hằng...
Công trình nghiên cứu: “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” do GS,TS Bùi Xuân Lưu, Nxb Thống kê ấn hành năm 2004. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế trong nông nghiệp; phân tích khái quát những thành tựu cũng như hạn chế của nông nghiệp nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời khuyến nghị về sửa đổi các chính sách và hoàn thiện vai trò của Nhà nước để nông nghiệp, nông thôn nước ta hội nhập thành công.
Công trình nghiên cứu: “Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tổ chức Ausaid nghiên cứu đã đi sâu phân tích những quy định của WTO về thương mại nông sản. Qua đó dự báo khả năng tương thích của hệ thống chính sách nông nghiệp Việt Nam so với những quy định của WTO, khuyến nghị những sửa đổi về chính sách để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi trở thành thành viên WTO.
Công trình nghiên cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp Việt Nam” là một dự án nghiên cứu tập thể do TS. Nguyễn Từ phụ trách. Trong công trình này, các tác giả đã tập trung phân tích các liên kết kinh tế quốc tế về thương mại và đầu tư trong nông nghiệp; đánh giá chính sách phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam; đồng thời khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt các tác giả đã tập trung phân tích những quy định của WTO về chính sách nông nghiệp của các nước đang phát triển và nêu những hướng bổ sung, sửa đổi chính sách nông nghiệp của Việt Nam để hội nhập thành công.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn không thể tách rời các nhân tố phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường...Rất nhiều tác giả quan tâm đến khía cạnh này của vấn đề. GS,TS Hoàng Chí Bảo về "hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn" (Nxb CTQG. H. 2004); "Các đoàn thể nhân dân trong đảm bảo dân chủ cơ sở" của PGS, TSKH Phan Xuân Sơn (Nxb. CTQG. H. 2002), TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông về "Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (Nxb. CTQG. H. 2003). PGS,TSKH Phan Xuân Sơn và Th.S Lưu Văn Quảng đã trực tiếp bàn về chính sách, hơn nữa lại là chính sách liên quan đến nông nghiệp nông thôn và chính sách dân tộc trong cuốn "Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay" (Nxb LLCT. H. 2005)…
Những công trình đó đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ liệu rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân trong thời kỳ mới ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình ấy không đi sâu nghiên cứu quá trình hoạch định chính sách công về nông nghiệp, nông thôn nói chung và mô hình nông thôn mới của một tỉnh (Quảng Nam) của Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đã nêu cũng là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả tiếp thu và sử dụng trong quá trình hoàn thành luận văn này và trong những công trình nghiên cứu của mình về sau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đớch
- Thông qua nghiên cứu, đánh giá quá trình hoạch định chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay nói chung, và Quảng nam nói riêng, luận văn nghiên cứu quá trình hoạch định chính sách công trong xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam, đề xuất các khuyến nghị mang tính giải pháp làm cơ sở để các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt hơn các chu trình hoạch định chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở địa phương, xây dựng thành công nông thôn mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách công và việc hoạch định chính sách công.
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển của chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, xây dựng mô hình nông thôn mới nói riêng của Đảng và Nhà nước ta từ sau đổi mới đến nay;
- Phân tích quá trình hoạch định chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những kiến nghị mang tính giải pháp nhằm thực hiện một cách khoa học các chu trình hoạch định chính sách công trong xây dựng mô hình nôn thôn mới, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiờn cứu
Cỏc chớnh sỏch và chu trỡnh hoạch định chớnh sỏch cụng trong phỏt triển nụng nghiờp, nụng thụn núi chung và mụ hỡnh nụng thụn mới núi riờng.
4.1. Phạm vi nghiờn cứu
- Chớnh sỏch nụng nghiệp và phỏt triển nụng thụn của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới; chớnh sỏch của địa phương từ khi tỏi lập tỉnh Quảng Nam năm 1997 đến nay.
- Nghiờn cứu việc hoạch định chớnh sỏch cụng theo quy định phõn cấp của chớnh quyền cấp tỉnh ở tỉnh Quảng Nam trong lĩnh vực phỏt triển nụng nghiệp, nụng thụn hướng đến xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Lý luận: Chủ nghĩa Mỏc - Lờnin, tư tưởng Hồ Chớ Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, cỏc khung khổ lý thuyết về chớnh sỏch cụng.
Thực tiễn: Quỏ trỡnh hoạch định chớnh sỏch phỏt triển nụng nghiệp, nụng thụn, xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới ở nước ta và tỉnh Quảng Nam.
Đề tài sử dụng cỏc phương phỏp cụ thể: Phõn tớch, tổng hợp, logic, lịch sử, thống kờ, khảo sỏt thực tiễn, điều tra xó hội học, so sỏnh, dự bỏo, khảo sỏt văn bản.
6. ý nghĩa của luận văn
- Trờn phạm vi tỉnh Quảng Nam luận văn là cụng trỡnh đầu tiờn được nghiờn cứu ở quy mụ và phạm vi một luận văn thạc sĩ chớnh trị học.
- Luận văn cú thể dựng làm tài liệu tham khảo nghiờn cứu, giảng dạy và học tập trong lĩnh vực chớnh sỏch cụng. Cỏc khuyến nghị và dự bỏo cú thể dựng làm tài liệu tham khảo cho cỏc cơ quan lónh đạo, quản lý, hoạch định chớnh sỏch ở trung ương và địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG CĂN CỨ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH CễNG VỀ Mễ HèNH NễNG THễN MỚI
1.1. các khung khổ lý thuyết về chính sách công
1.1.1. Quan niệm về chớnh sỏch cụng
Cú nhiều định nghĩa khỏc nhau về “chớnh sỏch cụng”. Nhà kinh tế học Anh (Frank Ellis) cho rằng: Khụng cú một định nghĩa duy nhất về thuật ngữ “chớnh sỏch cụng” phự hợp với tất cả mọi người. Cỏch hiểu thụng thuờng được núi đến nhiều nhất: Chớnh sỏch (Politique) là cỏc chủ trương và cỏc biện phỏp của một đảng phỏi hoặc chớnh phủ trong cỏc lĩnh vực chớnh trị - kinh tế - xó hội; là sỏch lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đớch nhất định.
Tuy vậy, cú rất nhiều cỏch cắt nghĩa. Frank Ellis cho rằng chớnh sỏch là “nghệ thuật của Chớnh phủ” tạo ra cỏc điều chỉnh và sự can thiệp cần thiết. Chớnh sỏch cụng ngụ ý sự can thiệp của Nhà nước vào xó hội. Từ đú ụng nờu ra định nghĩa: “Chớnh sỏch được xỏc định như là đường lối hành động mà Chớnh phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả cỏc mục tiờu mà Chớnh phủ tỡm kiếm và sự lựa chọn cỏc phương phỏp để theo đuổi mục tiờu đúchỳ thớch
” [10, tr.121].
E. Anlerson cho rằng chớnh quyền là cơ quan thực hiện sự uỷ quyền của dõn, thực hiện ý chớ của mọi người. Vỡ thế nú là một thể chế cụng cộng điển hỡnh nhất, hoạt động của nú là hoạt động cụng cộng vỡ lợi ớch cụng cộng. Chớnh quyền cú khả năng huy động nguồn lực của toàn xó hội và tỏc động đến cỏc bộ phận của xó hội với những mục đớch nhất định. Những tỏc động này được gọi là chớnh sỏch. E. Anlerson cho rằng hoạt động của chớnh quyền là chớnh sỏch cụng. Từ đõy, ụng định nghĩa: "Chớnh sỏch cụng là những hoạt động mà chớnh quyền chọn làm và khụng làm" [10, tr.122].
Nhiều quan điểm cho rằng chớnh sỏch cụng là một chuỗi cỏc hoạt động nhằm trong một hệ thống với một trật tự xỏc định. Hệ thống này cú mục tiờu dài hạn hay ngắn hạn, được xõy dựng trờn cơ sở phỏp lý và loại trừ cỏc yếu tố ngẫu nhiờn. Như vậy chớnh sỏch cụng là hệ thống hoạt động cú tớnh toỏn và mục tiờu của chớnh quyền tỏc động đến cuộc sống của người dõn.
Theo Từ điển giải thớch thuật ngữ hành chớnh, “Chớnh sỏch cụng (Politique publique) là chiến lược sử dụng cỏc nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tõm của Nhà nước. Chớnh sỏch cụng cho phộp chớnh phủ đảm nhiệm vai trũ của người cha đối với cuộc sống của nhõn dõn. Nú tạo thời cơ, giữ gỡn hạnh phỳc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chớnh và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [49, tr.47].
Cỏc tỏc giả tập bài giảng chớnh trị học của Viện Khoa học chớnh trị cho rằng “chớnh sỏch là tập hợp những văn bản theo một hướng xỏc định được quyết định bởi những chủ thể c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- mucluc.doc