Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết định mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta, quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự tin, sánh vai cùng với tuổi trẻ trên thế giới. Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đội ngũ sinh viên là một trong những bộ phận quan trọng của thế hệ trẻ đất nước ta hiện nay. Sinh viên chính là những người lao động có trình độ cao trong tương lai, là nguồn lực chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hiện nay, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên là khá lớn. Bồi dưỡng, giáo dục cho họ khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, những kiến thức về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan phù hợp với yêu cầu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, lôi kéo và tha hoá thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị trường cũng có nhiều tác động tiêu cực đối với sinh viên. Điển hình là các biểu hiện của lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào may rủi, một bộ phận đang chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo, duy tâm Thực tế ở Tây Nguyên đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống mơ hồ về chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thoái về đạo đức và, họ đang bị các thế lực phản động kích động, lôi kéo. Điều tai hại là, với “hành trang” tư duy ấy, đang tiềm tàng trong họ những triển vọng không đáng mong đợi của những người mang vị thế chủ nhân tương lai của đất nước.
Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược trong quá trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là những chủ nhân tương lai của dân tộc, theo đó, lại là công việc vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho của đội ngũ sinh viên ở Tây Nguyên là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
92 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết định mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta, quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự tin, sánh vai cùng với tuổi trẻ trên thế giới. Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đội ngũ sinh viên là một trong những bộ phận quan trọng của thế hệ trẻ đất nước ta hiện nay. Sinh viên chính là những người lao động có trình độ cao trong tương lai, là nguồn lực chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hiện nay, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên là khá lớn. Bồi dưỡng, giáo dục cho họ khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, những kiến thức về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan phù hợp với yêu cầu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, lôi kéo và tha hoá thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị trường cũng có nhiều tác động tiêu cực đối với sinh viên. Điển hình là các biểu hiện của lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào may rủi, một bộ phận đang chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo, duy tâm… Thực tế ở Tây Nguyên đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống mơ hồ về chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thoái về đạo đức… và, họ đang bị các thế lực phản động kích động, lôi kéo. Điều tai hại là, với “hành trang” tư duy ấy, đang tiềm tàng trong họ những triển vọng không đáng mong đợi của những người mang vị thế chủ nhân tương lai của đất nước.
Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược trong quá trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là những chủ nhân tương lai của dân tộc, theo đó, lại là công việc vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho của đội ngũ sinh viên ở Tây Nguyên là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài
Vấn đề thế giới quan duy vật biện chứng ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Chẳng hạn, Bùi Ngọc có bài viết “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử”, đăng ở Tạp chí thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích sự hình thành và phát triển của thế giới quan khoa học là một tất yếu lịch sử.
Ở một góc độ khác, Lê Xuân Vũ khẳng định “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 186, số 6. Trong đó tác giả đã có sự lý giải khá thuyết phục tầm quan trọng của thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống xã hội Việt Nam. Hay như tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã tiếp cận vấn đề thế giới từ khía cạnh sinh học, trong bài “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, đăng ở Tạp chí Triết học 1988, số 3.
Ngoài một số bài viết trên, còn có một số luận án và luận văn cũng nghiên cứu vấn đề thế giới quan. Bùi Ỉnh đã nghiên cứu “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1988. Còn Trần Thước tập trung nghiên cứu thế giới quan của riêng đội ngũ trí thức: “Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức ở Việt Nam”, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
Trần Thanh Hà, Trần Viết Quân, Nguyễn Thị Luyến... tập trung nghiên cứu thế giới quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một khu vực nhất định. Nếu Trần Thanh Hà nghiên cứu “Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Kh’mer ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993, thì Trần Viết Quân lại đi sâu tìm hiểu vấn đề “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Còn Nguyễn Thị Luyến và Bùi Kiến Thưởng lại tìm đến đối tượng là sinh viên hay học viên, như “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005 của Nguyễn Thị Luyến. Hay“Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học của Bùi Kiến Thưởng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến:
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng, cấu trúc và chức năng của thế giới quan.
- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như: sinh viên, học viên, cán bộ nói chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới quan duy vật biện chứng.
- Đưa ra một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể.
Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện chưa có tác giả nào bàn tới.
Xuất phát từ tình hình thực tế biểu hiện thế giới quan của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên, từ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với thế hệ trẻ và đối với đội ngũ sinh viên, với mong muốn đóng góp một phần vào sự nghiệp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tôi chọn đề tài: “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, tác giả luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho tầng lớp này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng; xác định những nhân tố tác động đến thế giới quan và quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.
- Làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình này cho sinh viên Tây Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng và bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả nhằm giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên trong giai đoạn 10 năm gần đây (2000 - 2009) từ góc độ triết học.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục thế giới quan, nhận thức luận…cho thế hệ trẻ và sinh viên, tác giả kế thừa những thành tựu lý luận của các tác giả về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên.
- Đánh giá đúng thực trạng và bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho họ.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục - đào tạo ở các trường Đại học, Cao Đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1.1.1. Thế giới quan
Do yêu cầu tự nhiên và tất yếu của cuộc sống, con người không chỉ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài một cách thụ động mà luôn luôn phải tìm cách biến đổi nó nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình. Để đạt được mục đích đó, con người nảy sinh nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên cũng như chính bản thân mình. Từ đó một loạt vấn đề xuất hiện: Thế giới quanh ta là gì? Bản chất của nó ra sao? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Con người có vị trí như thế nào trong thế giới đó? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?... Trả lời những câu hỏi này sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm nhất định về thế giới, về vị trí con người trong thế giới ấy. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con người.
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ, song với tư cách là một khái niệm khoa học thì được nghiên cứu và xuất hiện vào thế kỷ XVIII, do Kant - nhà triết học cổ điển Đức nêu ra. Các nhà triết học người Đức nửa đầu thế kỷ XIX và các nhà triết học sau này đã tiếp tục sử dụng khái niệm trên trong các học thuyết của mình. Tiếp nối truyền thống đó, C.Mác và Ph.Ăngghen, đã kế thừa và phát triển thành một thế giới quan khoa học trên lập trường duy vật biện chứng.
Khái niệm thế giới quan hiện nay đã được nhiều nhà khoa học đương đại nghiên cứu và tiếp cận ở nhiều cấp độ và đưa ra các định nghĩa khác nhau. Trong Từ điển Triết học, các nhà khoa học Liên Xô đưa ra định nghĩa thế giới quan là: “toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại”[56, tr.539].
Theo một tác giả khác, thế giới quan là “một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề cội nguồn của thế giới và nguồn gốc của tri thức, về vị trí của con người trong thế giới, về ý nghĩa của cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội”[25, tr.42].
Hay một quan niệm khác:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế giới, về những hiện tượng về tự nhiên và xã hội và các quy luật phát triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan là phản ánh tồn tại vật chất và xã hội của con người [53, tr.10].
Từ những quan điểm về thế giới quan ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một người hoặc một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều chỉnh hành vi của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Hiểu thế giới quan với nghĩa như vậy là bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và loài người. Thế giới quan hình thành trên cơ sở những hiểu biết của con người về tự nhiên, về xã hội và về chính bản thân con người. Như vậy, có thể khẳng định rằng thế giới quan là lập trường sống của chủ thể. Bởi vì, nếu được trang bị thế giới quan đúng đắn và khoa học sẽ giúp chủ thể có lập trường vững vàng trước những biến động của cuộc sống, trước những tác động của những tư tưởng khác biệt hoặc đối lập.
Cũng theo cách hiểu thế giới quan như trên, thì thế giới quan gồm có thế giới quan cá nhân, thế giới quan giai cấp và thế giới quan xã hội.
Thế giới quan cá nhân là những kinh nghiệm sống, những tri thức của cá nhân nhất định về tự nhiên, xã hội và con người xung quanh. Tri thức tích luỹ được giúp cá nhân có lập trường để bảo vệ những quan điểm của riêng mình. Tri thức và niềm tin của mỗi người được phát triển đến một mức độ nào đó sẽ tạo nên lý tưởng sống của người đó. Như vậy, sự hình thành thế giới quan cá nhân là một quá trình lâu dài và phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác nhau. Chẳng hạn như: trình độ hiểu biết của từng người, chế độ xã hội, địa bàn sinh sống, điều kiện vật chất và tinh thần của cá nhân, và nhất là yếu tố giáo dục. Chính vì vậy, phẩm chất của thế giới quan cá nhân có thể thể thay đổi theo những yếu tố và điều kiện đó. Do đó, việc giáo dục thế giới quan đúng đắn, khoa học cho cá nhân là rất cần thiết cho một xã hội tiến bộ.
Thế giới quan giai cấp là hệ thống những quan điểm của một giai cấp về thế giới, về con người và về vị trí, vai trò, lợi ích của giai cấp ấy, nó phản ánh vị thế (tiến bộ hay lạc hậu) của giai cấp đó trong tiến trình của lịch sử.
Thế giới quan xã hội là hệ thống những quan điểm về thế giới, về vị trí con người trong thế giới được xây dựng trên những phạm trù, nguyên lý; được trình bày trong học thuyết của giai cấp thống trị trong đó lợi ích của giai cấp thống trị “được trình bày như đại diện cho lợi ích của toàn xã hội”. Thế giới quan xã hội do các nhà tư tưởng, các nhà lý luận xây dựng nên, nó có thể khoa học, có thể không khoa học. Điều này phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là khoa học hay không.
Về kết cấu (cấu trúc) của thế giới quan thường bao gồm những yếu tố sau:
- Tri thức: cũng giống như mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự nhiên, xã hội và con người nhưng không phải mọi tri thức đều là tri thức về thế giới quan. Mà chỉ là những tri thức nào biểu thị quan điểm chung về tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức về thế giới quan. Trong nội dung tri thức về thế giới quan thì những tri thức triết học đóng vai trò nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó.
- Niềm tin: niềm tin là một động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người, nó được phát triển trên cơ sở tri thức. Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt, nó có vai trò to lớn trong hoạt động của con người. Nếu con người làm một việc gì đó, mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con người sẽ bị tước mất những rung động ý chí, khát vọng, nghị lực, lòng nhiệt tình, sự cổ vũ cần thiết đối với công việc, đặc biệt là đối với những công việc xã hội rộng lớn. Niềm tin giúp con người có nghị lực để có thể vượt qua được những giây phút hiểm nghèo và dám hy sinh vì những mục đích cao cả. Như vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở của tri thức khoa học sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
- Lý tưởng: đó là sự kết hợp niềm tin và tri thức vào một tiêu chí, hình mẫu, sự hoàn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mô hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội. Lý tưởng giúp con người định hình được cuộc sống, sống có mục đích, có khát vọng.
Như vậy, trong ba yếu tố cấu thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của họ và sự hình thành lý tưởng là sự phát triển ở trình độ cao của thế giới quan.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nhưng tập trung ở ba hình thức chủ yếu: thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan thần thoại: là những quan niệm sơ khai về thế giới của người nguyên thuỷ. Nó là kết quả của những cảm xúc ban đầu của người nguyên thuỷ về thế giới và con người mà trong đó có sự hoà quyện giữa cái có thật và cái hoang tưởng, cái hiện thực và cái hư ảo, cái lý trí và cái tín ngưỡng, tư duy và cảm xúc…
Thế giới quan tôn giáo: là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó xuất phát trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn thấp kém, khi con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của tự nhiên (sấm sét, bão lụt, động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí” của xã hội (bệnh tật, nỗi khổ cực, áp bức, thống trị…). Trong điều kiện đó, con người đã thần thánh hoá các lực lượng tự nhiên và các thế lực xã hội, gán cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Có thể nói rằng, đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là ở “niềm tin sợ hãi” của con người vào sự tồn tại và sức mạnh siêu nhiên của thần thánh. Đồng thời, là sự bày tỏ nguyện vọng được giải thoát khỏi những khổ đau để vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Yếu tố nền tảng trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo, bao gồm cả niềm tin vào khả năng đạt tới cuộc sống tốt đẹp.
Thế giới quan triết học: là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên cơ sở trình độ nhận thức của con người đã đạt đến sự khái quát hoá, trừu tượng hoá. Hơn nữa, thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội sử dụng để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học diễn tả những vấn đề của thế giới bằng hệ thống lý luận các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó không chỉ trình bày các quan điểm của mình, mà còn luận chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở khoa học nhất định. Khi phân biệt thế giới quan triết học với các thế giới quan khác C.Mác viết:
Các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo, các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những hoài nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ - của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục [32, tr.416].
Có thể chia thế giới quan triết học thành thế quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần, vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới nói chung, bao gồm tự nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan duy tâm bao gồm thế giới quan duy tâm khách quan và thế giới quan duy tâm chủ quan. Thế giới quan duy tâm khách quan coi cơ sở của thế giới vật chất là thế giới tinh thần đã có trước và sinh ra thế giới các sự vật, hiện tượng. Còn thế giới quan duy tâm chủ quan thì tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi nó là cơ sở để tạo nên mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí của con người trong cuộc sống hiện thực. Thế giới quan duy vật gồm thế giới quan duy vật thời cổ đại, thế giới quan siêu hình và đỉnh cao là thế giới quan duy vật biện chứng.
Như vậy, thế giới quan triết học là thế giới quan có trình độ cao nhất trong các nấc thang của thế giới quan. Bởi tri thức triết học mang tính khái quát cao và triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất của con người về thế giới và về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
1.1.2. Thế giới quan duy vật biện chứng
Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học và cũng là đỉnh cao của thế giới quan đã có trong lịch sử. Có thể khẳng định rằng: Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan niệm khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và con người cùng những định hướng giá trị của con người mang giá trị hiện thực trong mối quan hệ, vận động, biến đổi và phát triển.
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp công nhân, đó là thế giới quan có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Tính khoa học thể hiện ở chỗ nó không chỉ cắt nghĩa sự tồn tại, vận động của thế giới từ các yếu tố vật chất, mà còn thấy sự đa dạng, phong phú của thế giới vật chất và mối quan hệ của bản thân thế giới đó cũng như sự vận động, biến đổi không ngừng của nó. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng nhìn nhận thế giới khách quan một cách thực sự khoa học nhất. Nó là sự kế thừa nền tảng tri thức của nhân loại tiến bộ. Tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là sự khái quát hoá cao của tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học tư duy trong quá trình vận động và phát triển của tri thức nhân loại.
Tính cách mạng thể hiện ở chỗ, thế giới quan duy vật biện chứng không thừa nhận bất cứ một cái gì là tuyệt đích, cuối cùng. Nó thừa nhận sự phát triển như một nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan; chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành động. Vì vậy nó tạo ra tinh thần cách mạng trong con người, tạo ra ý thức cải biến thế giới khách quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng không thoả hiệp với bất kỳ một tư tưởng phản khoa học nào. Nó có tính phê phán, tính chiến đấu cao để cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ giúp con người khám phá và giải thích thế giới mà con giúp con người tìm ra cách cải tạo thế giới.
Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ với nhau: đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
Những tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là những tri thức khác nhau và khái quát các hoạt động thực tiễn của con người. Tri thức trong thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó góp phần định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Trong đó, những tri thức của Triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng. Bởi vì:
- Triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên cơ sở thực tiễn. Theo chủ nghĩa duy vật mác-xít, một mặt, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất suy cho cùng quyết định ý thức; mặt khác, ý thức cũng tác động trở lại đối với vật chất. Ý thức phản ánh hiện thực không chỉ trong quá trình hiện thực tác động một cách giản đơn lên nó mà điều quan trọng là phản ánh trong quá trình con người cải tạo, biến đổi hiện thực. Đây là quan hệ tác động hai chiều trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn được “di chuyển và cải biến trong bộ óc” phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trái lại, ý thức muốn tác động vào thế giới vật chất để làm biến đổi nó thì cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn. Nhờ có hoạt động thực tiễn mới biến những chương trình, kế hoạch của con người thành hiện thực vật chất. Bằng hoạt động thực tiễn con người cải biến sự vật trong hiện thực, từ đó cải biến sự vật trong tư tưởng. Như vậy, thực tiễn trở thành khâu trung gian giữa cái vật chất và cái tinh thần.
- Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Bởi triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật thường tách rời phép biện chứng. Điều này thể hiện rõ nhất ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Mặt khác, phép biện chứng lại được chủ nghĩa duy tâm phát triển, nhất là trong triết học Hêghen. Vì vậy để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng duy tâm, từ đó tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận, giữa lý luận và phương pháp, giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Như vậy, chủ nghĩa duy vật mác-xít là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện chứng mác-xít l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia.doc