Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Để có được "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nước ta hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những con người có ý thức và năng lực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phương, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công chức không phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó, có một nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm vững kiến thức về nhà nước và pháp luật.
Ở Bình Định, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật nói riêng đã được cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm hơn. Việc mở các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại tỉnh và tham gia thi tuyển, cử tuyển cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành về nhà nước và pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phương trong tỉnh hiện nay đang còn là vấn đề bức xúc.
Là một giảng viên, công tác nhiều năm ở Trường Chính trị tỉnh Bình Định, tôi đã tham gia nhiều đợt nghiên cứu thực tế ở các địa phương trên địa bàn tỉnh. Qua tiếp xúc, trao đổi, khảo sát và làm việc với nhiều cán bộ, công chức ở các huyện, thành phố trong tỉnh, nhất là với đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn, đã cho thấy: Còn một bộ phận khá lớn cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt. Nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự. Có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng, nhưng chính quyền địa phương chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn giản trong nội bộ thôn ấp. Ngược lại, có vụ việc đơn giản thì quan niệm là nghiêm trọng và xử lý khá nặng nề.
Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các địa phương trong tỉnh, khi đã tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mà mình thực hiện chức năng quản lý.
114 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 948 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Để có được "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nước ta hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những con người có ý thức và năng lực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phương, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công chức không phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó, có một nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm vững kiến thức về nhà nước và pháp luật.
ở Bình Định, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật nói riêng đã được cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm hơn. Việc mở các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại tỉnh và tham gia thi tuyển, cử tuyển cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành về nhà nước và pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phương trong tỉnh hiện nay đang còn là vấn đề bức xúc.
Là một giảng viên, công tác nhiều năm ở Trường Chính trị tỉnh Bình Định, tôi đã tham gia nhiều đợt nghiên cứu thực tế ở các địa phương trên địa bàn tỉnh. Qua tiếp xúc, trao đổi, khảo sát và làm việc với nhiều cán bộ, công chức ở các huyện, thành phố trong tỉnh, nhất là với đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn, đã cho thấy: Còn một bộ phận khá lớn cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt. Nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự... Có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng, nhưng chính quyền địa phương chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn giản trong nội bộ thôn ấp. Ngược lại, có vụ việc đơn giản thì quan niệm là nghiêm trọng và xử lý khá nặng nề.
Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các địa phương trong tỉnh, khi đã tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mà mình thực hiện chức năng quản lý.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn địa phương Bình Định cũng như thực tiễn giảng dạy bộ môn Nhà nước và pháp luật ở Trường Chính trị tỉnh Bình Định; được sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Hoàng Văn Hảo, tôi chọn đề tài: " Giỏo dục phỏp luật cho cỏn bộ, cụng chức trờn địa bàn tỉnh Bỡnh Định - Thực trạng và giải phỏp " làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như: "Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước hiện nay", Luận án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đào Trí úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật", Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; "Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp Bộ, Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói chung và Bình Định nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này trên địa bàn Bình Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của luận văn
* Mục đích:
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp nhằm bổ sung, hoàn thiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục pháp luật;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trên địa bàn tỉnh Bình định, ngoài cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở địa phương còn có các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn. Luận văn này chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị của Bình Định.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp xã hội học pháp luật; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát thực tế; phương pháp thống kê.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
- Luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp ở Bình Định.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định và các địa phương có cùng đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa - xã hội... Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở Bình Định.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác giáo dục pháp luật cho riêng từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật cho Trường Chính trị tỉnh Bình Định; các Trung tâm giáo dục chính trị các huyện và thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định; các cơ sở giáo dục khác và Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp ở Bình Định.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật ở các trường Chính trị, các cơ quan giáo dục pháp luật thuộc các tỉnh trong khu vực duyên hải miền Trung (khu V).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ Sở Lý Luận về Giáo Dục Pháp Luật CHO Cán Bộ, CÔNG Chức
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Đến nay, khái niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm giáo dục pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
- Trước hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không cần đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan niệm này đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì vậy, việc đào tạo chuyên ngành luật không được Nhà nước chú ý, dẫn đến hậu quả là các cơ sở đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến năm 1979 mới có cơ sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và đến những năm 1987-1988, việc giáo dục pháp luật mới bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở bậc phổ thông.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.
Các quan niệm nói trên đều mang tính phiến diện, một chiều, chưa thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Trong cơ chế đó "yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn của cơ chế" [21, tr. 14]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. ở giai đoạn này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt" [32, tr. 244].
Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, trước hết cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, giáo dục pháp luật được hiểu là: Con người nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật.
Giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục, "cần vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo dục pháp luật" [19, tr. 8]. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn được xác định qua các yếu tố sau đây:
- Mặc dù, sự hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận giáo dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động, nhân tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao giờ cũng là tự giác, có ý thức, có định hướng rõ ràng, cụ thể "mà hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội là yếu tố hàng đầu" [16, tr. 9].
- Khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động giáo dục pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc giáo dục pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu tố của giáo dục pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp... và định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu cực, giúp cho đối tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật.
- Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư phạm, để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật. Từ đó cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức... Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình thức, phương pháp.
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối với các dạng giáo dục khác ở chỗ:
+ Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng.
+ Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người giáo dục pháp luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi vì, trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", "anh hãy làm như tôi làm" có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục.
Tóm lại: Khái niệm giáo dục pháp luật được xây dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục và theo đó, giáo dục pháp luật được hiểu: là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm giáo dục pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiện nay, như Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ là, tiếp tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [15, tr. 131], chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, "pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến" [48, tr. 14]. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật, có vai trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Bởi vì, các phạm trù, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo dục. Mục đích của giáo dục pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giáo dục pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân" [10, tr. 121], "thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [11, tr. 92], "phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật" [15, tr. 135].
- Mục đích thứ hai: Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tư (các vụ án gần đây cho ta thấy rõ điều đó, điển hình là vụ án Mai Văn Huy, vụ án Năm Cam). Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt được thông qua việc: Một là, giáo dục tình cảm công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công bằng thể hiện qua các qui phạm pháp luật. Hai là, giáo dục tình cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm trên, con người sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo những qui phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, con người sẽ có những hành vi hợp pháp.
- Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin... Thói quen xử sự hợp pháp được hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVA~2.DOC
- MUCLUC~1.DOC