Luận văn Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước tiến hành cải cách về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan thi hành án dân sự. Nhằm đưa chủ trương của Đảng tại Đại hội IX về cải cách tư pháp vào cuộc sống, trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết và các Luật liên quan đến cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng như: Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Pháp lệnh Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2004 và hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đến thi hành án dân sự khác. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhiều bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án án (quyết định dân sự trong bản án hình sự; bản án dân sự, hành chính, lao động, kinh tế.) đã được các cơ quan thi hành án dân sự kịp thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả tương đối cao. Điều này, đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước và thực hiện dân chủ, công bằng xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thi hành án dân sự vẫn còn có những bất cập chưa được giải quyết kịp thời như: Hệ thống văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật thi hành án dân sự nói riêng vẫn còn nhiều khoảng trống, chưa điều chỉnh hết các quan hệ phức tạp nảy sinh trong thực tiễn thi hành án dân sự; mô hình tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự chưa thực sự khoa học., trong đó có một nguyên nhân quan trọng là giám sát thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, chưa thực sự trở thành công cụ bảo đảm thực hiện quyền lực nhà nước trong thi hành án dân sự. Do đó, đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của thi hành án dân sự. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nhưng không được tổ chức thi hành dứt điểm, đặc biệt, tình trạng vi phạm pháp luật, tiêu cực, sách nhiễu trong tổ chức thi hành án dân sự vẫn diễn ra nhiều. Đúng như phát biểu của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm tại Lễ kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ II tháng 8 năm 2005 là "thi hành án dân sự vẫn chưa có bước chuyển biến đáng kể, vẫn còn sự phàn nàn của nhân dân đối với thi hành án dân sự", đã làm cho công bằng xã hội không được đảm bảo ở mức độ cao, hiện tượng vi phạm quyền tự do, dân chủ trong thi hành án dân sự vẫn còn xảy ra đã làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và làm suy giảm hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước ta nói chung.

 

doc122 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước tiến hành cải cách về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan thi hành án dân sự. Nhằm đưa chủ trương của Đảng tại Đại hội IX về cải cách tư pháp vào cuộc sống, trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết và các Luật liên quan đến cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng như: Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Pháp lệnh Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2004 và hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đến thi hành án dân sự khác. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhiều bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án án (quyết định dân sự trong bản án hình sự; bản án dân sự, hành chính, lao động, kinh tế...) đã được các cơ quan thi hành án dân sự kịp thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả tương đối cao. Điều này, đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước và thực hiện dân chủ, công bằng xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thi hành án dân sự vẫn còn có những bất cập chưa được giải quyết kịp thời như: Hệ thống văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật thi hành án dân sự nói riêng vẫn còn nhiều khoảng trống, chưa điều chỉnh hết các quan hệ phức tạp nảy sinh trong thực tiễn thi hành án dân sự; mô hình tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự chưa thực sự khoa học..., trong đó có một nguyên nhân quan trọng là giám sát thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, chưa thực sự trở thành công cụ bảo đảm thực hiện quyền lực nhà nước trong thi hành án dân sự. Do đó, đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của thi hành án dân sự. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nhưng không được tổ chức thi hành dứt điểm, đặc biệt, tình trạng vi phạm pháp luật, tiêu cực, sách nhiễu trong tổ chức thi hành án dân sự vẫn diễn ra nhiều. Đúng như phát biểu của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm tại Lễ kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ II tháng 8 năm 2005 là "thi hành án dân sự vẫn chưa có bước chuyển biến đáng kể, vẫn còn sự phàn nàn của nhân dân đối với thi hành án dân sự", đã làm cho công bằng xã hội không được đảm bảo ở mức độ cao, hiện tượng vi phạm quyền tự do, dân chủ trong thi hành án dân sự vẫn còn xảy ra đã làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và làm suy giảm hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước ta nói chung. Xuất phát từ những lý do nêu trên cho thấy, giám sát thi hành án dân sự là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống cả lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài " Giỏm sỏt thi hành ỏn dõn sự ở Việt Nam hiện nay " để làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước đây (trước tháng 7/1993), thi hành án dân sự được đặt dưới sự quản lý của Tòa án, do Tòa án đảm nhiệm. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của Tòa án là xét xử. Vì vậy, thi hành án dân sự như là việc làm "kiêm nhiệm" của Tòa án, nên thi hành án dân sự còn chưa được quan tâm nghiên cứu, ít có những công trình khoa học hay các bài nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến thi hành án dân sự. Từ khi thi hành án dân sự được chuyển giao sang cho Chính phủ thống nhất quản lý, vấn đề thi hành án dân sự đã được đặt ra và triển khai nghiên cứu ở mức độ nhất định: Đề tài "Thừa phát lại" do Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện; đề tài khoa học cấp Bộ về "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án" do Cục quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì; Luận văn thạc sĩ Luật học "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả Trần Văn Quảng; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự" của Nguyễn Thanh Thủy; Đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì. Ngoài ra, còn một số công trình khoa học khác được công bố trên các sách, tạp chí như: "Đối tượng giám sát thi hành án của Quốc hội" của Trần Thanh Hương được đăng trên Tạp chí Lập pháp, số 2 năm 2003; "Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà nước" của Đào Trí úc đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2003... Những công trình nghiên cứu trên ở chừng mực nhất định có đề cập một số khía cạnh của pháp luật về thi hành án dân sự, đề xuất cơ chế thuận tiện cho việc tiến hành các hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Nhưng đến nay, chưa có một bài báo, công trình nào đề cập và luận giải một cách cụ thể, trực tiếp hệ thống về giám sát thi hành án dân sự. Vì vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống, toàn diện về giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Mặc dù vậy, những công trình được công bố trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng, giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận văn đưa ra một số quan điểm và giải pháp bảo đảm giám sát giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về giám sát thi hành án dân sự; - Phân tích, đánh giá thực trạng giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay; - Nêu một số quan điểm và giải pháp bảo đảm giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam thời gian tới. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Giám sát thi hành án dân sự là đề tài nghiên cứu có nhiều nội dung khác nhau, trong phạm vi luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc trưng, chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp, nội dung giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và giải pháp bảo đảm giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên luận văn chỉ nghiên cứu giám sát thi hành án dân sự từ năm 1989, thời điểm có Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể và các phương pháp nghiên cứu khác như: so sánh, thống kê, điều tra xã hội,... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống và toàn diện về giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Vì vậy, luận văn có những điểm mới cụ thể là: - Nghiên cứu xác định khái niệm giám sát thi hành án dân sự và những đặc trưng cơ bản của giám sát thi hành án dân sự; - Nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động giám sát thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của giám sát thi hành án dân sự; - Đưa ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Với kết quả đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giám sát thi hành án dân sự, từ đó nâng cao nhận thức của xã hội đối với giám sát thi hành án dân sự. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề liên quan đến thi hành án dân sự trong các trường đại học, cao đẳng, Học viện Tư pháp và xây dựng Luật thi hành án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Nội dung của luận văn gồm 2 chương, 7 tiết. Chương 1 cơ sở lý luận về giám sát thi hành án dân sự 1.1. Khái niệm, đặc trưng, vai trò của thi hành án dân sự ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Quan niệm về thi hành án dân sự, cho đến nay vẫn còn là một câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học pháp lý. Hiện nay, có rất nhiều sách, báo và các công trình khoa học đề cập đến thuật ngữ "thi hành án dân sự", đặc biệt là từ khi chúng ta chủ trương xây dựng một Bộ luật thi hành án thống nhất áp dụng chung cho cả thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm chuẩn về thi hành án dân sự, được thừa nhận chung. Qua nghiên cứu các sách báo, tài liệu hiện hành cho thấy có một số quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hành chính vì từ khi công tác thi hành án dân sự được chuyển giao từ tòa án sang các cơ quan thuộc Chính phủ thì cơ quan tiến hành tố tụng thi hành án không phải là tòa án nữa. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng dân sự [36, tr. 60]. Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật [39, tr. 15]. Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự, giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của tố tụng dân sự vì nó mang đầy đủ tính chất, đặc trưng của tố tụng dân sự. Theo quan niệm này, thì cơ quan thi hành án dân sự hiện nay, tuy được đặt trong hệ thống các cơ quan hành chính, nhưng nó không có chức năng quản lý hành chính mà chỉ có chức năng thực hiện các bản án, quyết định của tòa án - cơ quan xét xử. "Do vậy thực chất cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của tố tụng dân sự là thi hành các bản án, quyết định của tòa án" [1, tr. 6]. Ngoài ra, cũng còn một số quan điểm khác cũng cho rằng, thi hành án dân sự cũng giống như thi hành án hình sự, được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, thi hành án dân sự phải được coi là một giai đoạn của tố tụng dân sự và là hoạt động mang tính chất tư pháp thuần túy. Có thể nói, hầu hết các quan điểm nêu trên đều lấy xuất phát điểm từ luật thực định, cụ thể là vị trí, tính chất của chủ thể tiến hành các hoạt động thi hành án dân sự, tính chất loại công việc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành để xác định thi hành án dân sự là loại tố tụng gì, có tính chất như thế nào. Tuy nhiên, các quan điểm này vẫn chưa thể giải quyết được thỏa đáng các vấn đề đặt ra. Cụ thể: Hiện tại, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2002, thì việc thi hành án hình sự được giao cho các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức thi hành (Bộ Công an tổ chức thi hành hình phạt tù, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức thi hành án quản chế, các cơ quan tổ chức nơi người bị án treo, đảm trách việc thi hành án treo đối với cá nhân, công dân thuộc sự quản lý của cơ quan tổ chức đó). Nhưng việc thi hành án phạt tù vẫn được coi là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Đồng thời, theo quy định của pháp luật, thì cơ quan điều tra và một số cơ quan khác thuộc chính phủ được giao nhiệm vụ điều tra đối với một số tội phạm thuộc lĩnh vực quản lý như: Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Điều tra quân đội, những cơ quan này đều là các cơ quan thuộc Chính phủ, nằm trong hệ thống các cơ quan hành pháp, nhưng các hoạt động do các cơ quan này tiến hành vẫn là hoạt động tố tụng. Chính vì vậy, không thể căn cứ vào việc cơ quan nào đảm nhận việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự để xác định hoạt động thi hành án dân sự là tố tụng hay không tố tụng; mang bản chất là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính. Mặt khác, theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, thì ngoài việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nhưng được thi hành ngay, thì cơ quan thi hành án còn tổ chức thi hành cả quyết định của Trọng tài Thương mại là cơ quan không nằm trọng hệ thống các cơ quan tư pháp. Do đó, việc căn cứ vào công việc cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện để xác định thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố tụng là chưa thuyết phục. Để có thể xem xét thi hành án dân sự có phải là hoạt động tố tụng hay không, mang bản chất hành chính hay tư pháp, cần phải xem xét một số vấn đề sau: Thứ nhất, mục đích của thi hành án dân sự Trong quá trình tố tụng, cũng như sau khi đã kết thúc quá trình tố tụng, Tòa án cho ra một bản án hoặc quyết định giải quyết một cách tổng thể về nội dung vụ án (trường hợp vụ án được đưa ra xét xử). Bằng bản án, quyết định của mình Tòa án nhân danh Nhà nước xác định rõ sự thật khách quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác định được về mặt lý thuyết, trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để giải quyết vụ việc và còn nằm trên giấy. Tương tự như vậy, khi giải quyết các tranh chấp, Trọng tài Thương mại cũng mới chỉ vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ việc và kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp đó cũng vẫn chỉ nằm trên giấy. Để các quyền, nghĩa vụ này được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt động tiếp theo để tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định đó. Do đó, có thể thấy, mục đích của thi hành án dân sự là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài Thương mại, biến các quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết thành các quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, trật tự pháp luật, tình trạng ban đầu của các quan hệ do bị hành vi vi phạm xâm hại được khôi phục. Như vậy, nếu coi mục đích của tố tụng là khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại, đưa nó trở về trạng thái ban đầu như trước khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố tụng bao trùm lên mục đích của thi hành án dân sự. Mục đích của thi hành án dân sự là nhằm củng cố thêm mục đích của tố tụng. Thứ hai, tính chất công việc mà cơ quan thi hành án phải thực hiện Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, thì cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định của Trọng tài Thương mại Việt Nam có hiệu lực thi hành) và những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay (bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án...) đều là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng tính chất lại khác nhau. Bản án, quyết định của Tòa án là kết quả của quá trình tố tụng, nên nó mang bản chất tư pháp. Còn quyết định của Trọng tài Thương mại, là kết của quá trình giải quyết tranh chấp thông thường, nên nó không mang bản chất tư pháp. Thứ ba, tính chất các hoạt động cơ bản do cơ quan thi hành án tiến hành để tổ chức thi hành một bản án, quyết định về dân sự Nếu coi xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng và bản án, quyết định là điểm nút kết thúc giai đoạn đó và đồng thời kết thúc quá trình tố tụng, thì thi hành án dân sự là một giai đoạn sau của giai đoạn xét xử, mang tính chấp hành. Lúc này sự thật khách quan về vụ án đã được sáng tỏ, các quyền và nghĩa vụ của các bên đã được xác định rõ, cơ quan thi hành án dân sự sẽ căn cứ vào đó để tổ chức thi hành theo đúng các trình tự đã được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành đúng nội dung phần quyết định của bản án (trường hợp chủ động thi hành án); thi hành đúng nội dung bản án và đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu). Cơ quan thi hành án không được tổ chức thi hành án trái với nội dung quyết định của bản án. Đồng thời, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự, sử dụng quyền lực nhà nước trực tiếp tác động đến các bên có liên quan đến việc thi hành án. Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền định đoạt của các bên đương sự vẫn được tôn trọng, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với nhau về cách thức thi hành án. Tuy nhiên, nếu như các bên không thỏa thuận được về phương thức thi hành án, hoặc đã thỏa thuận nhưng bên phải thi hành án không tự nguyện thực hiện đúng, thì cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài Thương mại. Đây là một trong những dấu hiệu rất đặc trưng thể hiện bản chất hành chính của thi hành án dân sự. Tất cả các trường hợp, nếu như đương sự có điều kiện thi hành án, nhưng không tự nguyện thi hành, đều dẫn tới việc áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của Trọng tài Thương mại. Mặt khác, mặc dù trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, chấp hành viên - người được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình. Tuy nhiên, với tư cách là người thừa hành nhiệm vụ, chấp hành viên vẫn phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu như chấp hành viên có vi phạm về mặt thủ tục thi hành án dẫn tới việc khiếu nại của đương sự, thì việc giải quyết khiếu nại được thực hiện thông qua thủ tục hành chính. Người có thẩm quyền sẽ giải quyết khiếu nại bằng một quyết định giải quyết khiếu nại. Trong quyết định giải quyết khiếu nại sẽ chấp nhận, không chấp nhận, chấp nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ khiếu nại của đương sự. Trường hợp chấp nhận khiếu nại của đương sự, người có thẩm quyền sẽ hủy bỏ các quyết định có vi phạm của chấp hành viên và yêu cầu chấp hành viên tổ chức thi hành lại theo đúng trình tự thủ tục đã được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, mà không trực tiếp rút lên để giải quyết theo một trình tự, thủ tục khác như trong tố tụng. Như vậy, có thể thấy rằng, thi hành án dân sự là hoạt động mang đậm tính chấp hành và điều hành. Thứ tư, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự Khác với các hoạt động tố tụng khác như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được quy định chặt chẽ trong luật tố tụng, quan hệ trên cơ sở luật tố tụng, thì trong hoạt động thi hành án dân sự, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan chức năng khác chủ yếu dựa trên cơ sở của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các luật, pháp lệnh, nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Do đó, các quan hệ của cơ quan thi hành án với các cơ quan khác chủ yếu là các quan hệ mang bản chất hành chính, có tính chấp hành và điều hành. Thậm chí ngay cả các quan hệ với cơ quan tố tụng như Tòa án, Công an, thì các quan hệ này cũng hầu như không được quy định cụ thể trong luật tố tụng. Từ các phân tích trên cho thấy, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp, không phải là hoạt động tố tụng, không phải là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Ngoài ra, khác với các hoạt động tố tụng khác đòi hỏi thủ tục rất chặt chẽ và chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, thì việc thi hành bản án, trong một số trường hợp có thể để người dân tự chịu trách nhiệm, tức là có thể tiến hành xã hội hóa một số hoạt động thi hành án. Tóm lại, thi hành án sự được hiểu là trình tự, thủ tục thi hành các quyết định về dân sự trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay của Tòa án và các quyết định về tài sản khác theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Đặc trưng của thi hành án dân sự 1.1.2.1. Thi hành án dân sự là hoạt động mang bản chất hành chính - tư pháp, thể hiện tính chấp hành và điều hành Như đã phân tích ở trên, căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án là các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và quyết định của Trọng tài Thương mại có hiệu lực thi hành. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào nội dung của bản án, quyết định (trường hợp cơ quan thi hành án chủ động thi hành án), căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, người phải thi hành án) để thi hành án. Cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của bản án, quyết định; người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án phải nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng [43]. Chính vì vậy, ở đây thể hiện rất rõ tính chấp hành trong hoạt động thi hành án dân sự. Đồng thời, chấp hành viên với tư cách là người được Nhà nước trao quyền và chịu trách nhiệm chính, trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết các vấn đề có liên quan đến thi hành án. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp chấp hành viên còn chịu trách nhiệm và điều hành cả các thành viên thuộc các cơ quan, tổ chức khác có tham gia vào quá trình thi hành án. Ví dụ: làm Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế, Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản, tiêu hủy tài sản... Mặt khác, hầu hết các hoạt động thi hành án đều hướng đến việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản, trực tiếp tác động đến tài sản của các đương sự. Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Pháp lệnh Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài Thương mại Việt Nam và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Như vậy, có thể thấy mọi hoạt động của cơ quan thi hành án đều nhằm tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản theo nội dung quyết định của bản án, quyết định của Tòa án - kết quả của hoạt động tư pháp. Trừ duy nhất một trường hợp là cơ quan thi hành án tổ chức thi hành nghĩa vụ liên quan đến nhân thân đó là tổ chức cưỡng chế cấm hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất định. 1.1.2.2. Thi hành án đề cao tính chủ động của chấp hành viên Trong thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp của chấp hành viên được đề cao. Chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa chọn các biện pháp thi hành phù hợp. Ví dụ, vụ việc đơn giản, ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án tốt, thì chấp hành viên lựa chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của Tòa án hoặc của Trọng tài Thương mại (trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi hành án thi hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án, quyết định của Tòa án). Ngược lại, nếu sau khi xác minh thấy đương sự có điều kiện để thi hành án, nhưng xét thấy người phải thi hành

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van- chinh thuc.doc
  • docBia- ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan