Luận văn Giải pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh quảng trị trong giai đoạn hiện nay

Nghèo đói hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc, là sự thách thức, cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực và toàn bộ nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp nhằm hạn chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới.

Ở Việt Nam, XĐGN được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ XHCN để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện "Làm cho người nghèo đủ ăn. Người đủ ăn thì khá, giàu. Người khá, giàu thì giàu thêm" [31, tr.303].

Chính vì vậy, XĐGN đã được đưa vào mục tiêu, chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm (1996-2000). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với XĐGN ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước. Phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo" [22]. Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển KT-XH, đời sống của đa số dân cư được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với cách mạng vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Tính đến cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo đói (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH). Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, nhưng hiệu quả đạt chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc, rất dễ tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh.

Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực miền Trung. Trong những năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện chương trình XĐGN và thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Từ 1996 - 2005 tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh hiện còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH. Đây đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của quốc gia mà còn có vai trò thúc đẩy KT-XH của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu; đồng thời hội nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa đảm bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu cấp thiết.

 

doc129 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh quảng trị trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gi¶i ph¸p xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo trªn ®Þa bµn tØnh qu¶ng trÞ trong giai ®o¹n hiÖn nay HÀ NỘI – 2007 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 5 1.1. Quan niệm về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo 5 1.2. Những nhân tố tác động đến nghèo đói và xoá đói giảm nghèo 21 1.3. Một số kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo ở trong nước và bài học rút ra cho tỉnh Quảng Trị 30 Chương 2: THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TỈNH QUẢNG TRỊ 36 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Trị 36 2.2. Thực trạng nghèo đói và xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 44 2.3. Những hạn chế và trở ngại chính trong xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Quảng Trị 68 Chương 3: MỤC TIÊU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ TRONG THỜI GIAN TỚI 73 3.1. Bối cảnh và mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tỉnh Quảng Trị 73 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 75 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH Đà CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH Chủ nghĩa xã hội DTTS Dân tộc thiểu số ĐBKK Đặc biệt khó khăn ĐCĐC Định canh định cư ESCAP Uỷ ban Kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình Dương GDP Thu nhập quốc nội GNP Thu nhập quốc dân HDI Chỉ số phát triển con người KTXH Kinh tế - xã hội LĐ-TB&XH Lao động, thương binh và xã hội MSDC Mức sống dân cư TW Trung ương UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc XĐGN Xoá đói giảm nghèo DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Quy định về chuẩn nghèo đói theo chuẩn quốc gia 13 Bảng 2.1. Phân loại các xã nghèo tỉnh Quảng Trị 45 Bảng 2.2. Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng (giá hiện hành) 46 Bảng 2.3. Chênh lệch về chi tiêu giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở Quảng Trị 47 Bảng 2.4. Nghèo đói theo vùng, miền, khu vực (cuối năm 2005) 49 Bảng 2.5. Bình quân nhân khẩu 1 hộ năm 2004 50 Bảng 2.6. Tình hình nghèo đói theo dân tộc (cuối năm 2005) 51 Bảng 2.7. Tỷ lệ biết chữ của dân số 10 tuổi trở lên (năm 2004) 52 Bảng 2.8. Tỷ lệ bằng cấp cao nhất của dân cư 15 tuổi trở lên (năm 2003) 52 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Thu nhập và chi tiêu cho đời sống, 2004 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghèo đói hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc, là sự thách thức, cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực và toàn bộ nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp nhằm hạn chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, XĐGN được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ XHCN để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện "Làm cho người nghèo đủ ăn. Người đủ ăn thì khá, giàu. Người khá, giàu thì giàu thêm" [31, tr.303]. Chính vì vậy, XĐGN đã được đưa vào mục tiêu, chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm (1996-2000). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với XĐGN ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước. Phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo" [22]. Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển KT-XH, đời sống của đa số dân cư được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với cách mạng vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Tính đến cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo đói (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH). Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, nhưng hiệu quả đạt chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc, rất dễ tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh. Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực miền Trung. Trong những năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện chương trình XĐGN và thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Từ 1996 - 2005 tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh hiện còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH. Đây đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của quốc gia mà còn có vai trò thúc đẩy KT-XH của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu; đồng thời hội nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa đảm bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Xung quanh vấn đề nghèo đói và XĐGN là chủ đề được nhiều cơ quan trong nước, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Nhưng đáng chú ý là một số công trình của các tác giả sau: - UNDP, “Tiến kịp", 1996. - Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề XĐGN ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. - Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hòa, “Phân hóa giàu - nghèo ở một số Quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999. - Ngô Quang Minh, “Tác động kinh tế của nhà nước góp phần XĐGN trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. - Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo, "XĐGN vùng dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp cận", năm 2001. - Trần Thị Hằng, "Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Nxb Thống kê, năm 2001. - Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nẵng năm 2002. - Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” năm 2004 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề nghèo đói và XĐGN. Song hiện chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ những vấn đề nghèo đói và XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên, đặc biệt là những vấn đề lý luận là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn tỉnh, nhằm góp phần đưa Quảng Trị trở thành tỉnh có KT-XH phát triển bền vững. 3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo đói và XĐGN. + Phân tích thực trạng nghèo đói và XĐGN ở tỉnh hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói và những vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. + Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện XĐGN ở Quảng Trị trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề nghèo đói và XĐGN. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghèo đói là vấn đề bức xúc ở Quảng Trị. Do vậy, đề tài tập trung nghiên cứu tình hình nghèo đói và XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Việc phân tích thực trạng nghèo đói và XĐGN chủ yếu từ 1996 đến nay. Các đề xuất giải pháp về XĐGN dự kiến đến năm 2010 là chủ yếu. 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để xem xét vấn đề nghèo đói và XĐGN một cách khách quan, khoa học và sát thực tiễn, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nghèo đói và XĐGN, vấn đề dân tộc. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội học như: Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, phương pháp đồ thị, mô hình, phân tổ, điều tra, tổng kết thực tiễn... để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ tiếp tục kế thừa kết quả của nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐGN; luận văn có những đóng góp về mặt khoa học sau đây: Chỉ ra diễn biến nghèo đói, hoạt động XĐGN ở tỉnh Quảng Trị và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Đưa ra một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm từng bước XĐGN ở Quảng Trị trong thời gian tới được nhanh hơn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1.1. Quan niệm về nghèo đói và các tiêu chí xác định nghèo đói 1.1.1.1. Quan niệm về nghèo đói Hiện nay nghèo đói đã, đang diễn ra trên quy mô lớn và hậu quả của nó tác động đến mọi vấn đề trong đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Nó có ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực xã hội lan rộng v.v..Vì vậy, sự nghiệp chống nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Để giải quyết vấn đề nghèo đói cần thiết phải có quan niệm đúng về nghèo đói. Tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển XH, tháng 6 năm 2000 tại Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam kết, phấn đấu giảm một nữa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "Tấn công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về XĐGN. Tại Hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000, Liên Hợp Quốc, một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI [40, tr.3]. Tuy nhiên, quá trình thực hiện XĐGN ở mỗi quốc gia có cách làm và giải pháp khác nhau. Đó là do ở mỗi quốc gia có trình độ phát triển KT-XH, điều kiện địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau nên khả năng đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ vật chất, tinh thần cho dân chúng cũng khác nhau. Ngay trong một quốc gia thì ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử thì khả năng đáp ứng các nhu cầu trên cho dân chúng cũng không giống nhau. Điều đó dẫn đến quan niệm về nghèo đói và giải pháp XĐGN của các quốc gia có sự khác nhau. Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như: nghèo về văn hoá, nghèo về tri thức, nghèo về kinh tế… Dưới góc độ kinh tế, nghèo cũng được xem xét với các lát cắt khác nhau như: nghèo về lương thực thực phẩm, nghèo về điều kiện sinh hoạt, nghèo trong mối quan hệ với giàu, nghèo trong việc bị hạn chế tiếp cận các nguồn lực phát triển; nghèo trong việc khó tiếp cận được thị trường...Vậy nghèo được hiểu như thế nào? Abapiasen - chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng [7, tr.20]. UNDP đã đưa ra những định nghĩa về nghèo [26, tr.27] như sau: - Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. - Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. - Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác. Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được XH thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán của từng địa phương [24, tr.8]. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ và bao quát nên có thể coi đây là định nghĩa chung nhất và có tính hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo của các quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa chưa được xác định vì còn phải tính đến sự khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng, miền khác nhau. Ưu điểm của khái niệm này là đã làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là: "Tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương"... Ở Việt Nam, nghèo đói được phân theo hai cấp độ: Đói và nghèo. - Quan niệm về đói: Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần. Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt). + Đói kinh niên: Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. + Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét. + Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát... - Quan niệm nghèo của Việt Nam: Về cơ bản quan niệm nghèo của Việt Nam thống nhất với khái niệm nghèo của ESCAP. Quan niệm nghèo ở đây có 2 dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. - Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia và cũng được mở rộng dần. - Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo. Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ nghèo khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là đất nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm nghèo tương đối. Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Xem xét quan niệm nghèo và đói cho thấy: đói là khái niệm dùng để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Giữa đói và nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau, "nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo"[25, tr. 18]. Nghèo ở Việt Nam được chia làm 3 cấp độ: người nghèo, hộ nghèo và vùng nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 của Việt Nam đã căn cứ vào các cấp độ trên để đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ nghèo, vùng nghèo v.v... và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. - Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. - Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch v.v... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. - Vùng nghèo: Là địa bàn nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao. Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ phát triển KT-XH của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Có nhiều quan niệm về nghèo đói khác nhau, luận văn lựa chọn quan niệm của Việt Nam để thực hiện quá trình nghiên cứu của mình. 1.1.1.2. Tiêu chí xác định nghèo đói và chuẩn nghèo đói Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây: Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [54, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính. Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường; cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [54, tr.181]. Chuẩn mang tính định lượng. Vậy, nếu lấy thu nhập làm tiêu chí xác định nghèo thì có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại * Tiêu chí xác định nghèo và chuẩn nghèo của thế giới Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối "thu nhập" theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy, nhóm giàu nhất gấp 59 lần nhóm nghèo nhất [27, tr.11]. Hiện nay, Ngân hàng thế giới đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu, nghèo của các quốc gia dựa vào mức "thu nhập quốc dân" bình quân tính theo đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính bằng đô la Mỹ. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua tương đương và cũng tính bằng đô la Mỹ. Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các nước trên toàn thế giới làm 6 loại: + Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu. + Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu. + Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu. + Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình. + Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo. + Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo. Ở Việt Nam, GDP bình quân đầu người hiện nay khoảng 600 USD/ người/ năm, thuộc diện nước nghèo. Theo phương pháp thứ hai, muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả hàng hóa, thực hiện phương pháp tính "rổ hàng hóa" sức mua tương đương để tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. Ngân hàng thế giới đã tính mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.100calo/ngày. Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày. Với mức trên, ước tính hiện có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo đói. Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền KT-XH và sức mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD) cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia là 28USD/người/tháng, của Srilanca là 17USD/người/tháng, còn của Bangladet là 11USD/ người/ tháng... Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính hiện nay nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu - nghèo. Tuy nhiên, nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn hóa, chính trị, xã hội. Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân theo đầu người cao nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề nghèo. Ở các nước phát triển tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường và những bất công khác vẫn còn khá phổ biến, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng lên. Như vậy, có thể thấy nghèo khổ trong xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập thấp hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Chính vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu, nghèo tương đối chính xác và khách quan. * Tiêu chí xác định nghèo và chuẩn nghèo của Việt Nam Trong những năm qua để đánh giá được nghèo đói ở Việt Nam, Tổng cục thống kê và Bộ LĐ -TB & XH đã đưa ra tiêu chí và một số phương pháp xác định chuẩn nghèo, đói như sau: Phương pháp xác định đường đói nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới Tổng cục thống kê đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường "mức sống" của Ngân hàng thế giới được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (các năm 1992 - 1993 và 1997 - 1998) để xây dựng đường đói nghèo. Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, được xác định bởi chi phí cần thiết để mua rổ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân 1người/ngày (2.100 calo). Đường đói nghèo ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm các mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Trên cơ sở xây dựng đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn nghèo đói của Việt Nam như sau: - Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn đồng/người/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92 USD. - Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm 1998 là 1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD. Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau: + Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã hơn 13 năm nên không thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam; tính toán phức tạp, chi phí điều tra tốn kém. + Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị, nông thôn và chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập danh sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia. Bộ LĐ-TB&XH là cơ quan thường trực của chương trình XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc đầu nghèo được xác định tiêu chí đánh giá là dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang chỉ tiêu thu nhập, kết quả là đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau (bảng 1.1). Bảng 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói theo chuẩn quốc gia Chuẩn nghèo đói qua các giai đoạn Phân loại người nghèo đói Mức thu nhập BQ/người/tháng 1993-1995 (Mức thu nhập qui ra gạo) Đói (KV nông thôn) Dưới 8Kg Đói (KV thành thị) Dưới 13Kg Nghèo (KV nông thôn) Dưới 15Kg Nghèo (KV thành thị) Dưới 20Kg 1996-2000 (Mức thu nhập qui ra gạo tương đương với số tiền) Đói (Tính cho mọi khu vực) Dưới 13Kg (45.000 đồng) Nghèo (KV nông thôn miền núi, hải đảo) Dưới 15Kg (55.000 đồng) Nghèo (KV nông thôn, đồng bằng trung du) Dưới 20Kg (70.000 đồng) Nghèo (KV thành thị) Dưới 25Kg (90.000 đồng) 2001-2005 (Mứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van ban cuoi cung.doc
  • docbiaoke.doc
Tài liệu liên quan