Luận văn Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa công ty Giao nhận kho vận ngoại thương

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đó, hệ thống doanh nghiệp đã có những đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi điều kiện cơ chế quản lý thay đổi và hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những bất cập: phát triển tràn lan, kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý không thích hợp, hoạt động kém hiệu quả Vì vậy, việc làm thế nào để cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Để giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp chiến lược là tiến hành CPH DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, tiến tới xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường.

CPH DNNN là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN còn tồn tại nhiều nhiều vấn đề dẫn tới việc cổ phần hóa không đạt được mục tiêu như mong muốn.

Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương là một DNNN trực thuộc Bộ Công thương và không nằm ngoài diện cổ phần hóa của Nhà nước. Cổ phần hóa đã được tiến hành ở một số chi nhánh của công ty nhưng còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục tiến hành cổ phần hóa các bộ phận còn lại của công ty, để tiến trình cổ phần hóa diễn ra nhanh chóng và hiệu quả công ty cần có một kế hoạch thực hiện đồng bộ, rõ ràng nhằm tránh những thiếu sót trước đây. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề trên, qua quá trình thực tập tại công ty VIETRANS được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – Ths. Nguyễn Đức Hiển và các anh chị phòng Kế toán kiểm toán của công ty em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa công ty Giao nhận kho vận ngoại thương” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.

Chương 2: Thực trạng quá trình cổ phần hoá tại công ty Giao nhận kho vận ngoại thương

Chương 3: Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá công ty Giao nhận kho vận ngoại thương

 

doc105 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 992 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa công ty Giao nhận kho vận ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CP Cổ phần CPH Cổ phần hóa DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp Nhà nước TTCK Thị trường chứng khoán VIETRANS Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Nội dung Chương 1 Bảng 1.1 Tình hình CPH DNNN từ năm 1992 đến tháng 8- 2008 Bảng 1.2 Số liệu các DNNN tiến hành CPH Chương 2 Sơ đồ 2.1 Sơ đồ cơ cầu tổ chức của công ty VIETRANS Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh của Vietrans qua các năm 2006-2008 Bảng 2.2 Kết quả kinh doanh của văn phòng công ty VIETRANS Bảng 2.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty CP VIETRANS Miền Nam LỜI MỞ ĐẦU Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đó, hệ thống doanh nghiệp đã có những đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi điều kiện cơ chế quản lý thay đổi và hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những bất cập: phát triển tràn lan, kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý không thích hợp, hoạt động kém hiệu quả… Vì vậy, việc làm thế nào để cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Để giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp chiến lược là tiến hành CPH DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, tiến tới xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. CPH DNNN là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN còn tồn tại nhiều nhiều vấn đề dẫn tới việc cổ phần hóa không đạt được mục tiêu như mong muốn. Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương là một DNNN trực thuộc Bộ Công thương và không nằm ngoài diện cổ phần hóa của Nhà nước. Cổ phần hóa đã được tiến hành ở một số chi nhánh của công ty nhưng còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục tiến hành cổ phần hóa các bộ phận còn lại của công ty, để tiến trình cổ phần hóa diễn ra nhanh chóng và hiệu quả công ty cần có một kế hoạch thực hiện đồng bộ, rõ ràng nhằm tránh những thiếu sót trước đây. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề trên, qua quá trình thực tập tại công ty VIETRANS được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – Ths. Nguyễn Đức Hiển và các anh chị phòng Kế toán kiểm toán của công ty em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa công ty Giao nhận kho vận ngoại thương” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Chương 2: Thực trạng quá trình cổ phần hoá tại công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Chương 3: Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1. Doanh nghiệp Nhà nước: 1.1.1. Khái niệm DNNN: Luật DNNN năm 2003 đã có định nghĩa về DNNN khá khái quát, chính xác phù hợp với cách tiếp cận của nhiều nước cũng như thực tiễn vận động của nền kinh tế đất nước: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. DNNN có những đặc điểm sau: - Trong từng DNNN vốn do Nhà nước đầu tư. - DNNN hoạt động trên cả lĩnh vực kinh doanh và công ích. Do nhiều nguyên nhân khác nhau hoạt động kinh doanh của hầu hết các DNNN là kém hiệu quả, đặc biệt tại các nước đã từng áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Dưới thể chế kinh tế này các ngành, các đơn vị, các doanh nghiệp mất đi quyền tự chủ trong kinh doanh, sinh ra ỷ lại vào Nhà nước. Điều này dẫn đến đầu tư nhiều mà không hiệu quả, nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, thất thoát tài sản Nhà nước gây khủng hoảng kinh tế. 1.1.2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế: Kinh tế Nhà nước được xác định là đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế “là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Kinh tế nhà nước bao gồm: các DNNN, hệ thống ngân hàng Nhà nước, các quỹ tín dụng quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, ngân sách, phần vốn của Nhà nước góp vào doanh nghiệp cổ phần hay liên doanh với các thành phần kinh tế khác. Trong đó DNNN là lực lượng nòng cốt, lực lượng chủ đạo của nền kinh tế. DNNN có những vai trò chủ yếu sau đây: - DNNN có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạ tầng cho nền kinh tế. do tác động của quy luật giá trị, việc đầu tư vào hạ tầng như hệ thống giao thông, thông tin, liên lạc, các dịch vụ công ích như điện, xây dựng hạ tầng, vận tải hành khách và hàng hoá thường ít được các doanh nghiệp quan tâm. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp thì các dự án đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên thường vượt ngoài khả năng tài chính, kỹ thuật và công nghệ. Chính vì vậy DNNN được coi là giải pháp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nhiều quốc gia, nhất là ở các quốc gia đang phát triển, thiếu vắng những doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực kinh tế và kỹ thuật đủ mạnh. DNNN được giao phó vai trò khá lớn trong việc đảm bảo các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu hoặc nhạy cảm của nền kinh tế mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không thể đảm nhiệm vì nhiều lý do khác nhau. - DNNN phải tạo ra được nguồn thu cho ngân sách để phát triển kinh tế xã hội - DNNN có vai trò to lớn trong việc điều tiết nền kinh tế. Nhờ vào sự tồn tại của thành phần kinh tế công cùng với tiềm lực to lớn của nó, Nhà nước có thể tác động tới sự phát triển của nền kinh tế theo những chiều hướng hoặc theo những chính sách thích hợp với lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. - Thúc đẩy và đảm bảo việc làm cũng là một trong những vai trò quan trọng của DNNN. - Giảm đói nghèo là vai trò được các quốc gia đang phát triển kỳ vọng nhất từ các DNNN. Mang tính xã hội hoá cao, nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, được Nhà nước bao cấp nhiều mặt nên DNNN cần phải trở thành động lực của việc xoá đói giảm nghèo. - Tăng cường sự phát triển kinh tế quốc dân và củng cố chủ quyền quốc gia là vai trò khá phổ biến của DNNN. - DNNN được giao sứ mệnh trở thành hình mẫu về hiệu quả sản xuất - kinh doanh, mô hình giải quyết các vấn đề an sinh xã hội cho người lao động. 1.1.3. Vai trò chủ đạo của DNNN đi về đâu? Thực tiễn hoạt động của DNNN ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù DNNN được giao phó vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân song hoạt động của chúng còn tồn tại nhiều điểm bất cập. DNNN chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách, đội ngũ nhân lực được đào tạo cũng tập trung chủ yếu trong các DNNN. Các DNNN chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành dịch vụ chiến lược khác như bảo hiểm, ngân hàng...Tuy nhiên, thế mạnh và vai trò của DNNN không được duy trì một cách bền vững. Do sự xơ cứng trong cơ chế quản lý, cùng hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tâp trung DNNN càng ngày càng trở nên kém hiệu quả, thể hiện: Thứ nhất, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, cả nước hiện còn khoảng 2.700 DNNN. Trong đó, số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 78%, doanh nghiệp thua lỗ chiếm 15,1%, doanh nghiệp hòa vốn chiếm 6,9%. Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, nếu tính đủ chi phí phát sinh trong kỳ theo quy định như khấu hao tài sản cố định, trích dự phòng nợ phải thu khó đòi… thì số doanh nghiệp lỗ và không có lãi sẽ cao hơn. Trong 5 năm qua, số nợ phải thu khó đòi của DNNN không những không giảm mà còn tăng bình quân 8,7%/năm. Tính đến 31/12/2005, tổng số nợ phải thu của DNNN là 166.359 tỷ đồng thì số nợ khó đòi là 3.757 tỷ đồng; tổng số nợ phải trả là 449.195 tỷ đồng thì số nợ quá hạn là 5.548 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN nhìn chung còn quá cao. Đặc biệt, nhiều công ty có số nợ phải trả gấp 5 lần vốn Nhà nước tại công ty. Có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn tự có nên khả năng thanh toán nợ rất thấp, rủi ro cao. Thứ hai, thiết bị công nghệ lạc hậu: máy móc thiết bị của Việt Nam được nhập từ nhiều nguồn nhưng đa phần thuộc thế hệ đã lạc hậu. Theo điều tra của Bộ khoa học - công nghệ và môi trường (1996) thì máy móc công nghệ của Việt Nam đã lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm, có thiết bị được sản xuất từ năm 1930, có 38% thiết bị thuộc diện thanh lý, 52% đã qua duy tu bảo dưỡng. Thứ ba, số lao động dôi dư quá lớn: tình trạng lao động dôi dư, lao động không được đào tạo cơ bản nhiều làm tăng chi phí tiền lương, bảo hiểm, bảo hộ lao động, chi trợ cấp mất việc làm... đồng thời ảnh hưởng đến việc đổi mới thiết bị công nghệ. Thứ tư, công tác quản lý của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, cơ chế quản ý còn nhiều bất cập và sơ hở, những tồn tại tài chính không được xử lý dứt điểm luôn là gánh nặng cho doanh nghiệp. Những biểu hiện này cho thấy hiệu quả và vai trò của DNNN với tư cách là động lực phát triển kinh tế ngày càng trở nên mờ nhạt. Thêm vào đó là sự thua lỗ triền miên của DNNN đã khiến ngân sách quốc gia không còn đủ sức để bao cấp và duy trì hoạt động của chúng. DNNN từ chỗ là trụ cột trong nền kinh tế quốc dân trở thành một gánh nặng đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Thứ nhất, do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN . Thực tế này khiến các DNNN khó trở thành một chủ thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ, điều mà bất cứ chủ thể nào tham gia các quan hệ kinh tế, thương mại đều rất cần. Thứ hai, sự xung đột giữa các mục tiêu đặt ra cho kinh tế Nhà nước. Phần lớn DNNN được giao thực hiện các mục tiêu kinh tế song cũng có không ít những mục tiêu khác hoặc mang tính chất chính trị, quân sự, an ninh quốc phòng hoặc mang tính chất xã hội. Việc thực hiện một lúc nhiều mục tiêu khác nhau khiến DNNN dễ rơi vào tình trạng lúng túng. Thứ ba, thiếu sự đầu tư cho việc tăng năng suất lao động. Năng suất lao động là yếu tố sống còn của doanh nghiệp trong bất cứ nền kinh tế nào, bất cứ quốc gia nào. Năng suất lao động phụ thuộc vào sự thay đổi công nghệ tiên tiến một cách thường xuyên, vào cơ chế quản lý năng động mà những điểm này thì DNNN khó có được do bị kiểm soát bởi hệ thống quản lý nhiều tầng cấp, quan liêu và mệnh lệnh. Thứ tư, thiếu cơ chế kích thích thích hợp đối với không chỉ người lao động mà cả đối với những người quản lý DNNN. Sự ràng buộc bởi chế độ lương, bảng lương quy định làm cho tất cả đều thực hiện công việc của mình một cách cầm chừng, thụ động vì không có động cơ vật chất thôi thúc. Cuối cùng là các DNNN thiếu khả năng cạnh tranh. Điều này thể hiện ở chỗ giá cả hàng hoá, dịch vụ của các DNNN đều cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tư nhân hay hỗn hợp. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó khẳng định vai trò chủ đạo không thể thiếu của thành phần kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là DNNN. Để DNNN thực hiện được sứ mệnh của mình chúng ta không có cách nào khác là phải đổi mới. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, chủ trương đổi mới về mọi mặt của Nhà nước đã được đẩy mạnh trong đó CPH là một trong những giải pháp cơ bản nhằm cải cách khu vực kinh tế quốc doanh. Với chủ trương xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng không ngừng được nâng cao. Để đáp ứng được yêu cầu này, CPH DNNN được coi là một giải pháp quan trọng và triệt để nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, nâng cao năng lực của các DNNN ở Việt Nam. Điều này đã được khẳng định qua Nghị quyết Đại hội VIII, IX và tiếp tục được khẳng định trong báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của Đại hội Đảng X. 1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: 1.2.1. Khái niệm CPH DNNN: CPH DNNN là việc chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (đa sở hữu), sự chuyển đổi này được thể hiện ở hai mặt căn bản sau: - Chuyển hoá quyền sở hữu từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, điều này kéo theo sự thay đổi quyền quản lý, quyền sử dụng và tạo nên sự gắn kế chặt chẽ giữa ba tuyến liên quan đến tài sản của doanh nghiệp là Nhà nước, người lao động và Nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. - Thay đổi quy chế hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ hoàn toàn bị Nhà nước chi phối sang tự chủ kinh doanh theo quy định của pháp luật. Việc CPH một bộ phận DNNN ở nước ta có những nét đặc thù, đó là CPH những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, mà thực chất là CPH một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của các DNNN. Cụ thể, tìm ra một hình thức quản lý phù hợp, vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa đảm bảo quản lý một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. Đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước, xoá bỏ độc quyền đối với một số DNNN, buộc các doanh nghiệp phải phát huy năng lực cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với kinh tế tư nhân và thu hút các nhà đầu tư nhân vào các ngành, các lĩnh vực mà sự độc quyền của Nhà nước không còn cần thiết. Nhà nước hướng tới tập trung vào những ngành then chốt, mũi nhọn, đòi hỏi hàm lượng vốn và khoa học - kỹ thuật cao để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của đất nước trên thị trường quốc tế cũng như tập trung vào ổn định nền kinh tế vĩ mô. CPH sẽ tạo ra khả năng huy động vốn của toàn xã hội, tạo thêm việc làm, nâng cao sức cạnh tranh và làm thay đổi cơ cấu DNNN. Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn đang trì trệ, CPH tạo ra sự ổn định về mặt xã hội, thực hiện sự phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp. 1.2.2. Bản chất của CPH DNNN: Sự phát triển của DNNN đều vấp phải tình trạng chung là hiệu quả thấp, lãng phí, trong nhiều trường hợp nó còn là mảnh đất của sự tham nhũng. Sự sa sút không thể cứu vãn nổi của DNNN dẫn đến quá trình cải cách DNNN. Cải cách DNNN được thực hiện ở các nước theo những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở nước đó. Cải cách DNNN được thực hiện thông qua biện pháp chủ yếu sau đây: - Tư nhân hoá - Cổ phần hoá - Cho thuê DNNN - Bán DNNN - Cho phép doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh với DNNN trong cùng ngành. - Phương thức BOT trong xây dựng hạ tầng và công ích - Thuê tư nhân quản lý DNNN - Giảm các cổ phần Nhà nước trong các doanh nghiệp thuộc các ngành có tính cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của nguồn vốn không phải từ Nhà nước - Chia nhỏ hoặc sát nhập DNNN tuỳ theo tính chất và mục tiêu của việc cơ cấu lại - Thành lập các doanh nghiệp công tư hợp danh Nhìn chung, cải cách DNNN theo hình thức nào cũng đều nhằm mục đích thị trường hoá DNNN. Thị trường hoá DNNN là quá trình chuyển việc phân bổ nguồn lực được thực hiện bằng phương thức quản lý Nhà nước sang cơ chế điều chỉnh thị trường, chuyển một phần tài sản DNNN thành phi Nhà nước, được thể hiện ở 4 khía cạnh: - Cải cách quản lý vĩ mô đối với DNNN theo định hướng thị trường - Đa dạng hoá tài sản của DNNN - Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN phải được thực hiện theo các nguyên tắc thị trường - Hình thành cơ chế loại bỏ các DNNN yếu kém ra khỏi thị trường Trong tất cả các giải pháp cải cách DNNN nêu trên thì tư nhân hoá và CPH được áp dụng phổ biến nhất. Giữa tư nhân hoá và CPH có những điểm chung rất cơ bản, chính vì vậy nhiều người cho rằng CPH là một dạng tư nhân hoá hay CPH là tư nhân hoá từng phần. Xét ở những góc độ hình thức nhất định thì có vẻ như quan điểm này đúng. Tư nhân hoá là việc chuyển tài sản từ thành phần kinh tế công sang thành phần kinh tế tư. CPH được thực hiện thông qua việc chia vốn của một số DNNN nhất định ra thành các cổ phần và những cổ phần này được bán cho nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và một phần do Nhà nước sở hữu. Do đó, CPH đã biến DNNN thành sở hữu chung của những người nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Như vậy, có thể nói CPH chính là tư nhân hoá một phần DNNN. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có những điểm khác nhau rất cơ bản sau đây: - Thứ nhất, tư nhân hoá được coi là một chính sách và mục tiêu của nó là hạn chế đến mức tối đa thành phần kinh tế công trong khi đó CPH chỉ được coi là một giải pháp thực hiện. - Thứ hai, tư nhân hoá được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau, trong đó có cả phương thức phi quốc hữu hoá, tức trả lại cho chủ cũ những tài sản đã bị quốc hữu hoá, kể cả toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động. CPH trong khi đó chỉ thực hiện thông qua việc DNNN tiến hành phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu. - Thứ ba, tác động của hai giải pháp này hoàn toàn khác nhau về cả mức độ lẫn tính chất. Tư nhân hoá dẫn đến thay đổi hình thức sở hữu của các DNNN, còn CPH có tác dụng làm giảm sở hữu của Nhà nước trong DNNN. Với tư cách là một chính sách, tư nhân hóa tác động đến toàn bộ nền kinh tế, còn CPH với tư cách là một giải pháp thực hiện chính sách này tác động chủ yếu đến các DNNN bị CPH. - Thứ tư, tư nhân hoá thường được tiến hành trên cơ sở của luật về tư nhân hoá. CPH được thực hiện dựa trên cơ sở của luật công ty hiện hành. CPH không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu Nhà nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi về chất của các cơ sở kinh tế này. Xét một cách khái quát, CPH có một số ưu thế nhất định sau: - CPH không làm thay đổi một cách cơ bản kết cấu sở hữu của nền kinh tế. Vì vậy, nền tảng kinh tế của xã hội vẫn có thể không thay đổi lớn khi tiến hành CPH. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN CPH sẽ được tăng lên và từ đó có thể làm cho chúng có khả năng thực hiện tốt hơn vai trò của mình. - CPH làm phát sinh nhiều công ty cổ phần có sự tham gia của sở hữu Nhà nước. Công ty cổ phần là chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường và sự có mặt đông đảo của các công ty này sẽ có tác động tốt tới nền kinh tế. - Do chỉ giảm bớt mức độ sở hữu của Nhà nước trong các DNNN CPH mà không loại chúng ra khỏi nền kinh tế nên CPH không làm nảy sinh vấn đề việc làm ở mức độ lớn. - CPH có thể mang lại sự gia tăng vốn đầu tư của DNNN thông qua việc huy động vốn từ các cổ đông - các chủ sở hữu mới của doanh nghiệp CPH. Dĩ nhiên, như bất cứ hiện tượng kinh tế - xã hội nào khác, CPH cũng chứa đựng những hạn chế của nó. Hạn chế cơ bản nhất của CPH xét ở yêu cầu phát triển kinh tế thị trường là khó có thể nhanh chóng tạo ra nền tảng thích hợp cho nền kinh tế thị trường mà theo quan điểm phổ biến ở phương Tây là chủ yếu dựa vào thành phần kinh tế tư nhân. Đối với Việt Nam, do đặc trưng của nền kinh tế, do chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, CPH được coi là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Sỡ dĩ CPH được coi là giải pháp cải cách triệt để đối với DNNN vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN - đó là vấn đề sở hữu. Những giải pháp cải cách DNNN khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của DNNN trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. CPH chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vi mô mà trước hết trong các doanh nghiệp. 1.2.3. Tác động của CPH DNNN: CPH có vai trò to lớn trong việc đổi mới DNNN, nhất là ở nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoach hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Tác dụng của CPH thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: - CPH có tác dụng làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng hơn. Chính vì vậy nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong DNNN vốn gây ra những vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng động trong sản xuất kinh doanh. - CPH có tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu một chủ. Như vậy, các thực thể kinh tế vi mô cũng trở nên đa sở hữu như bản thân nền kinh tế vĩ mô. Điều này tạo nên sự tương thích nhất định của các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô. - CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp nếu như họ mong muốn bằng việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thông qua cái gọi là ”nền dân chủ cổ phần”. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các vấn đề kinh tế - chính trị xã hội của đất nước. - CPH có tác dụng rất lớn đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế: một thực tế khó có thể phủ nhận là tốc độ và tính bền vững của sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta phụ thuộc rất nhiều vào khu vực kinh tế Nhà nước. Với tỷ trọng vốn cũng như các nguồn lực khác được đầu tư, quy mô lao động, tiềm năng về khoa học công nghệ, chất xám và ưu thế về thị trường của khu vực kinh tế Nhà nước hơn hẳn so với các thành phần kinh tế khác, tăng trưởng kinh tế của khu vực này là một yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể, quá trình CPH đã sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển; CPH là giảm số lượng các DNNN thuần tuý, tức là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách Nhà nước cho những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào các nhu cầu phát triển khác; thông qua CPH Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản Nhà nước trước đây giao cho các doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả; cũng với việc giảm số lượng DNNN sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi về tín dụng Nhà nước, làm giảm áp lực lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng Nhà nước, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp cận được với các nguồn vốn vay, tạo tính bình đẳng trên thị trường; CPH DNNN gắn liền với sự xuất hiện hàng loạt các công ty cổ phần, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ giúp các nguồn lực trong xã hội sẽ được sử dụng một cách hiệu quả hơn; cuối cùng, CPH giúp các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn và chính chúng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, từ đó tạo ra một vòng xoáy thúc đẩy toàn nền kinh tế phát triển. - CPH DNNN ở nước ta có tác dụng to lớn trong việc đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong các DNNN và những cơ chế quản lý chúng. Các DNNN sau CPH sẽ trở thành công ty cổ phần, được đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Khi đó sẽ không tồn tại cơ chế chủ quản và cũng không còn cơ chế “xin - cho” đối với doanh nghiệp nữa. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị chi phối bởi các quy luật thị trường và pháp luật. - CPH tác động tới các vần đề xã hội ở nhiều phương diện, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhiều đối tượng xã hội, làm phát sinh những mối quan hệ mới. Ảnh hưởng của CPH có thể rất tích cực song cũng có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực nếu không được xử lý đúng. - CPH và thị trường chứng khoán có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hoạt động CPH của các DNNN cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán, làm hàng hoá trên thị trường thêm phong phú, ngược lại sự phát triển của thị trường chứng khoán có tác dụng thúc đẩy quá trình CPH, làm gia tăng số cổ đông tiềm tàng cho các DNNN CPH, hỗ trợ DNNN trong các khía cạnh như định giá doanh nghiệp, tư vấn phát hành, bão lãnh phát hành...Ngoài ra với sự phát triển của thị trường chứng khoán các DNNN sau khi CPH phải thực hiện chế độ tài chính công khai, minh bạch từ đó hoạt động sẽ hiệu quả hơn. Những tác động nói trên của CPH đối với các DNNN đã khẳng định tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình sắp xếp, đổi mới lại DNNN. Đường đi đã được xác định rõ ràng để đạt được thành công chúng ta cần có những bước đi đúng đắn trong quá trình thực hiện. 1.3. Các hình thức và quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: 1.3.1. Các hình thức CPH DNNN: Hình thức CPH công ty Nhà nước được đưa ra trong nghị định 109/2007/NĐ- CP của Chính phủ ngày 26/6/2007 về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần như sau: - Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn bên ngoài áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Ưu điểm của hình thức này là quy mô được mở rộng nên nó phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Bán một phần vốn vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111189.doc
Tài liệu liên quan