Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa

Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển phải tận dụng và khai thác triệt để nguồn lực quý giá đó. Đối với Việt Nam, đất nước mà 80% dân số nằm trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng cần được quan tâm giải quyết.

Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nhiều dự án lớn về nông nghiệp đã và đang góp phần thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong tỉnh. Thực tế cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã có những dấu hiệu tích cực, lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó công tác này còn bộc lộ rất nhiều hạn chế và khó khăn cần được tháo gỡ. Đó là cơ chế quản lý chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư còn rườm rà gây trở ngại cho các nhà đầu tư, việc thực hiện các chính sách thu hút vốn còn kém hiệu quả và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương khác trong thu hút vốn Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa trong giai đoạn mới là vấn đề có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.

 

doc111 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển phải tận dụng và khai thác triệt để nguồn lực quý giá đó. Đối với Việt Nam, đất nước mà 80% dân số nằm trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng cần được quan tâm giải quyết. Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nhiều dự án lớn về nông nghiệp đã và đang góp phần thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong tỉnh. Thực tế cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã có những dấu hiệu tích cực, lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng được cải thiện... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó công tác này còn bộc lộ rất nhiều hạn chế và khó khăn cần được tháo gỡ. Đó là cơ chế quản lý chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư còn rườm rà gây trở ngại cho các nhà đầu tư, việc thực hiện các chính sách thu hút vốn còn kém hiệu quả và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương khác trong thu hút vốn… Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa trong giai đoạn mới là vấn đề có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài ‘’Giải phỏp thu hỳt vốn đầu tư phỏt triển nụng nghiệp ở tỉnh Thanh Húa’’ làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ta có một số công trình nghiên cứu liên quan đáng chú ý sau: - Nguyễn Đức Quyền (2007), Hoàn thiện chớnh sỏch kinh tế phỏt triển nụng nghiệp ở tỉnh Thanh Húa trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. Hồ Ngọc Hà (2006), Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Đẩu (2005), Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Đỗ Đức Quân (2001), Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Nguyễn Xuân Kiên (1999), Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ, Vũ Đình ánh (1998), Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà Nội. Phạm Hảo (1998), Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa miền Trung. Nguyễn Văn Phúc (1996), Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. Nguyễn Chu Lai (1996), Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Trong các công trình nghiên cứu trên, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cần thiết để thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và quan điểm khác nhau nên các tác giả đều có hướng đi riêng của mình nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. Có công trình nghiên cứu hướng về thu hút vốn đầu tư trong tổng thể nền kinh tế trên bình diện quốc gia; có công trình nghiên cứu về một khía cạnh trong thu hút vốn đầu tư tại một địa phương, một khu vực hay trên toàn đất nước; có công trình lại đi sâu nghiên cứu vốn đầu tư phát triển một ngành như công nghiệp, nông nghiệp... Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp một cách cơ bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh Thanh Hóa. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong điều kiện hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: Phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc trưng của vốn đầu tư, các nguồn vốn đầu tư, vai trò của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và tác động của quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước và một số nước trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Đánh giá tình hình phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn vừa qua. Từ đó chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và nguyên nhân. Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vốn đầu tư; cơ chế, chính sách của cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thời gian khảo sát thực trạng chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2007, các giải pháp được đề xuất thuộc phạm vi quản lý nhà nước cấp tỉnh đến năm 2010 và 2020. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp như: phân tích, thống kê, so sánh, các phương pháp điều tra trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của một số tác giả về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số địa phương trong nước và ở một số nước trên thế giới. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn có những đóng góp sau đây: - Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản về bản chất và vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng. - Tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số tỉnh trong nước và trên thế giới, từ đó rút ra những bài học vận dụng vào điều kiện tỉnh Thanh Hóa. - Đánh giá đúng thực tiễn phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về vốn đầu tư và Thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp 1.1. vốn đầu tư phát triển nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Vốn là yếu tố quan trọng, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vai trò của vốn càng được phát huy tối đa. Cho đến nay, đã có rất nhiều khái niệm về vốn được nhìn nhận dưới góc độ phân loại thành vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư tài chính... Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa bằng văn bản chính thức của Nhà nước về vốn. Để đưa ra một khái niệm mang tính chất tổng hợp về vốn đầu tư, cần đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư sau đây: 1/ Vốn được biểu hiện bằng giá trị. Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và tài sản vô hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu…). Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể (bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đất, uy tín trên thị trường…). Có thể thấy, trong nền kinh tế thị trường, các hình thái của vốn rất phong phú, đa dạng, từ đó khái niệm về vốn cũng được mở rộng về phạm vi. Do vậy, cần nhận thức đầy đủ các khía cạnh xung quanh vấn đề vốn đầu tư để khai thác triệt để nguồn lực này, nhằm đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế. 2/ Vốn luôn được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền chỉ biến thành vốn khi chúng sử dụng vào mục đích đầu tư kinh doanh. Nói cách khác, tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu chuyển và tuần hoàn. Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền dự trữ không có khả năng sinh lời không phải là vốn. Tùy thuộc vào phương thức đầu tư kinh doanh mà cách vận động và phương thức vận động của tiền vốn cũng khác nhau. Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiền được sử dụng để mua hàng hóa (H) bao gồm TLSX và SLĐ, hàng hóa sau quá trình sản xuất trở thành H’ và từ đó T’ là lượng tiền mới được tạo ra. Có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: T - H … SX … H’- T’ Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại, quá trình T→ T’ được thông qua việc mua bán hàng hóa. T - H - T’ Trường hợp đầu tư theo hình thức góp vốn kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu…, sơ đồ được mô phỏng đơn giản như sau: T- T’ 3/ Trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hóa đặc biệt vì nó mang đầy đủ hai đặc trưng cơ bản của hàng hóa thông thường là giá trị, giá trị sử dụng và đặc biệt ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng nó. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Giá cả của vốn gọi là lãi suất. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải trả cho người bán một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi suất. Cũng như mọi hàng hóa thông thường khác, vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định. Tùy theo hình thức đầu tư mà chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. Sở dĩ gọi vốn là hàng hóa đặc biệt bởi vì người bán vốn không mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Chính sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời. Sự lưu thông của vốn đã từng bước tạo lập và hình thành thị trường vốn - một bộ phận cấu tạo nên thị trường tài chính. Vấn đề đặt ra là khi nào người chủ sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng vốn của mình? Câu trả lời là chỉ khi người chủ sở hữu vốn có được lợi tức thỏa đáng - đây được xem như một nguyên tắc cần chú ý khi thu hút, huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. 4/ Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền mà còn biểu hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình. Ví dụ: vị trí địa lý, lợi thế thương mại, uy tín thị trường, bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm lâu năm…Việc “giá trị hóa” được những tiềm năng và lợi thế vô hình đó góp phần quan trọng trong việc phát huy triệt để vai trò vốn đầu tư nhằm phát triển kinh tế. 5/ Tích tụ và tập trung vốn: Tích tụ vốn là sự tăng thêm quy mô vốn cá biệt của từng doanh nghiệp, từng nhà sản xuất. Tập trung vốn là sự tăng thêm quy mô của vốn cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều nguồn vốn cá biệt sẵn có thành một nguồn vốn cá biệt khác lớn hơn. Tích tụ và tập trung vốn quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Tích tụ vốn làm tăng quy mô và sức mạnh của vốn, do đó tập trung mạnh hơn. Tập trung vốn lại tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh tích tụ, ảnh hưởng qua lại của tích tụ và tập trung vốn làm cho nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội ngày càng tăng. Tích tụ và tập trung vốn dẫn đến tích tụ sản xuất. Thiếu vốn cho phát triển kinh tế nói chúng và phát triển nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam là tình trạng phổ biến. Vì vậy, khắc phục khó khăn này, không còn cách nào khác là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển nông nghiệp. 6/ Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói cách khác, ở các thời điểm khác nhau giá trị của vốn cũng khác nhau. Thời gian càng dài, giá trị và độ an toàn của đồng tiền càng giảm. Vì vậy, khi tính toán, phân tích hiệu quả đầu tư cần phải hiện tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn. Từ các đặc trưng cơ bản trên về vốn, có thể tổng hợp lại để đưa ra một khái niệm mang tính tóm lược về vốn đầu tư phát triển nông nghiệp như sau: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị, được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình, sử dụng vào mục đích đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp để sinh lời. 1.1.2. Các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại. Tuy nhiên, chúng đều được hình thành trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, do vậy để thuận tiện trong quá trình phân tích, tìm hiểu, có thể phân nguồn vốn đầu tư thành nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước gồm: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Nguồn vốn nước ngoài: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác. 1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước NSNN là toàn bộ cỏc khoản thu, chi của Nhà nước đó được cơ quan nhà nước cú thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện cỏc chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc chủ yếu là không hoàn trả trực tiếp. Nguồn vốn NSNN được hình thành từ nguồn tích lũy của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của Nhà nước. - Vốn tích lũy của NSNN là phần chênh lệch giữa thu và chi NSNN. Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi NSNN bao gồm: chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao… ở phần lớn các nước đang phát triển, thường xuyên xảy ra tình trạng thâm hụt ngân sách do nhu cầu chi tiêu thường xuyên rất cao, trong khi nguồn thu lại rất hạn chế nên ngân sách nhà nước không phải là nguồn vốn đầu tư chủ yếu. Như vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước cần lựa chọn những lĩnh vực thật sự cần thiết để tập trung vốn đầu tư phát triển. Muốn tăng tích lũy của NSNN, cần áp dụng chính sách tăng thu và tiết kiệm chi. Cần phải tích lũy NSNN ngày càng tăng mới góp phần nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển kinh tế - xã hội. - Nguồn vốn tín dụng nhà nước: là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Nhà nước do bộ Tài Chính phát hành, có mệnh giá, lãi suất, thời hạn, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Theo “Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ” Nghị định số 01 - 2000/NĐ ban hành ngày 13/10/2000, trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau: trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư. Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới một năm, được phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước, đồng thời tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ. Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm: Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tư, nằm trong kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch và Trái phiếu huy động vốn để hỗ trợ đầu tư phát triển theo kế hoạch hàng năm được Chính phủ phê duyệt. Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp hơn so với các hình thức tín dụng khác, nhưng độ an toàn cao do có sự đảm bảo của Nhà nước nên rất dễ huy động vốn. Do đó, nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư quan trọng phục vụ cho phát triển nông nghiệp. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: Khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, định hướng phát triển kinh tế. Tham gia vào những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn để tạo đột phá trong phát triển kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước - một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước - kinh doanh ở lĩnh vực mà tư nhân không đủ vốn, không muốn kinh doanh vì lợi nhuận thấp, rủi ro cao, nhất là ở lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi,... Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ nhiều kênh khác nhau như: nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập doanh nghiệp (nguồn vốn này có xu hướng giảm), nguồn vốn huy động thông qua trái phiếu; lợi nhuận được phép để lại doanh nghiệp; tiền khấu hao tài sản cố định,... Ngoài việc hỗ trợ đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước thì vốn của doanh nghiệp nhà nước cũng là kênh quan trọng cần huy động để phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ nông nghiệp. Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian Vốn đầu tư cho phát triển được huy động qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm… chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của xã hội. Các tổ chức tín dụng với chức năng trung gian huy động vốn từ nơi cung ứng đến nơi có nhu cầu đầu tư để giải quyết quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán trong toàn bộ nền kinh tế, sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Ưu điểm của các tổ chức này là có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và các thể nhân trong nền kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp nhận đầy đủ quy chế tín dụng. Các hình thức huy động phong phú, đa dạng; thời gian cho vay rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu khác nhau của người đi vay; lĩnh vực cho vay rất rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế… là những lợi thế của hình thức tín dụng này. Những ưu thế đó khiến các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối lượng lớn. Do vậy, huy động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tín dụng trung gian có ý nghĩa rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế có chiều hướng gia tăng và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi cần phải tăng cường tích tụ và tập trung vốn để đổi mới, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và tạo vị thế trên trường quốc tế. Song phần tích tụ của từng doanh nghiệp tăng lên không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp phải huy động vốn bằng các hình thức như vay tín dụng ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm, vay thương mại… Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân…) lợi nhuận sau thuế được chia làm hai phần: một phần chia cho các thành viên của công ty, một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên vốn đầu tư. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này để tiến hành đầu tư còn sử dụng thêm cả phần trích từ khấu hao tài sản cố định. ở nước ta hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời với nhiều hình thức, quy mô và lĩnh vực hoạt động khác nhau. Các doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và nhỏ, tuy nhiên hoạt động rất linh hoạt, có hiệu quả và đóng góp đáng kể trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một nguồn huy động vốn đầu tư không thể không kể đến là nguồn huy động từ các tầng lớp dân cư. Nguồn vốn được hình thành từ tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình. Phần tiết kiệm là chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu. Thu nhập nếu nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm, thu nhập bằng chi tiêu thì tiết kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì sẽ có tiết kiệm, đây chính là điều kiện để hình thành nên nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư. Tiết kiệm ở các nước phát triển có xu hướng nhiều hơn ở các nước đang và kém phát triển, các hộ gia đình có thu nhập cao hơn thường tiết kiệm nhiều hơn, tiết kiệm ở thành thị thường nhiều hơn nông thôn. Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư còn ở mức thấp nên mức tiết kiệm của dân cư rất thấp, dẫn đến nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư chưa nhiều. Tuy nhiên theo đà phát triển chung của đất nước, thu nhập của dân cư ngày càng tăng, nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên. Trong điều kiện điểm xuất phát và khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, gây khó khăn cho việc khai thác các nguồn vốn trong nước như ở nước ta hiện nay, thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là hết sức quan trọng. 1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kì hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất - kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả xã hội. Tóm lại, đây là hình thức đầu tư có sự di chuyển vốn qua biên giới một quốc gia. Việt Nam trong giai đoạn hiện nay mặc dù đã có sự phát triển vượt bậc so với trước đây song mức thu nhập vẫn còn thấp, do đó khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy chưa cao. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư để hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế rất lớn. Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao, hàng hóa nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao, nên tình trạng cán cân thanh toán bị thâm hụt, dẫn đến thiếu hụt ngoại tệ là vấn đề mà nước ta đang phải đối mặt. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vấn đề nan giải trên. Nguồn vốn nước ngoài thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng, phong phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước; đồng thời dẫn nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào việc phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động… Vì vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nó một cách hiệu quả là vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau: Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất bản tháng 06/1999, ODA được định nghĩa như sau: “ODA là một phần của tài trợ phát triển chính thức ODF, trong đó các yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ”. Trong đó, tài trợ phát triển chính thức (Offcial Development Finance, viết tắt là ODF) là tất cả các nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển. ODA là nguồn vốn được vay có lãi suất thấp, thời gian cho vay dài, có thời gian ân hạn (chỉ trả lãi, chưa phải trả gốc), giá trị cho vay lớn. Lĩnh vực đầu tư của ODA chủ yếu là các lĩnh vực không hoặc ít sinh lợi nhuận, đó là các công trình công cộng mang tính chất phúc lợi xã hội như các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông vận tải, giáo dục y tế… Ví dụ: dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án cấp nước sạch 112 triệu USD của WB cho Việt Nam… Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên thế giới vẫn còn hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA giành cho Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ vẫn tăng trưởng mạnh. Năm 2008 Việt Nam đạt mức cam kết ODA kỷ lục 5,426 tỷ USD, so với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỷ USD, xấp xỉ 20%. ODA là khoản vay có tính chất ưu đãi, có lợi về mặt kinh tế - xã hội cho các nước nhận đầu tư, là nguồn vốn có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van 8_9.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan