Đẩy mạnh XK nói chung và XKTS nói riêng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc đẩy mạnh XK góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, cùng với những thành công trong XK nói chung, XKTS đã đạt được những thành tựu đáng kể. TS đã trở thành một trong những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam. Hàng TSXK luôn xếp vào top đầu về KNXK, sản phẩm TSXK không những tăng về số lượng, chủng loại, giá trị XK, mà còn có mặt ở 130 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2006, KNXK TS đạt 3,358 tỷ USD. Con số đó của năm 2007 và 2008 tương ứng là 3,7637 tỷ USD và 4,5101 tỷ USD. Năm 2008, KNXK TS chỉ đứng sau dầu thô (10,3568 tỷ USD), dệt may (9,1204 tỷ USD), giày dép (4,7678 tỷ USD) [21]
Hà Tĩnh là một tỉnh có tiềm năng sản xuất và XKTS rất lớn. Trong những năm qua, XKTS của Hà Tĩnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Hà Tĩnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng, XKTS của Hà Tĩnh còn ở mức độ khiêm tốn.
Mặt khác, XKTS của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới. Hàng TSXK của Hà Tĩnh hiện phải cạnh tranh quyết liệt với hàng TS của nhiều địa phương khác và của nhiều nước khác cũng có điều kiện tương đồng như Việt Nam. Chẳng hạn Trung Quốc, một số nước ASEAN.
Hơn nữa, hàng TSXK của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam hiện đang đứng trước những rào cản mới. Đó là những quy định khắt khe của Chính phủ các nước NKTS về VSATTP, các điều kiện kỹ thuật, Trong nhiều trường hợp, việc vượt qua những rào cản này còn khó khăn gấp bội so với hàng rào thuế quan trước đây. Trong khi đó, chất lượng hàng TSXK của Hà Tĩnh chưa cao. Chính sách hỗ trợ XKTS còn hạn chế và bị ràng buộc bởi những quy định của WTO. Hoạt động XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này ở Hà Tĩnh còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể khai thác tốt hơn lợi thế của mặt hàng XK chủ lực này, đảm bảo cho hàng TSXK có thể trở thành mặt hàng mũi nhọn, có thể đứng vững và có uy tín trên thị trường quốc tế? Điều đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này của Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp thúc đẩy hơn nữa XKTS trong giai đoạn tới.
Đây cũng là lý do tôi chọn vấn đề: “Giải phỏp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
120 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh XK nói chung và XKTS nói riêng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc đẩy mạnh XK góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, cùng với những thành công trong XK nói chung, XKTS đã đạt được những thành tựu đáng kể. TS đã trở thành một trong những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam. Hàng TSXK luôn xếp vào top đầu về KNXK, sản phẩm TSXK không những tăng về số lượng, chủng loại, giá trị XK, mà còn có mặt ở 130 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2006, KNXK TS đạt 3,358 tỷ USD. Con số đó của năm 2007 và 2008 tương ứng là 3,7637 tỷ USD và 4,5101 tỷ USD. Năm 2008, KNXK TS chỉ đứng sau dầu thô (10,3568 tỷ USD), dệt may (9,1204 tỷ USD), giày dép (4,7678 tỷ USD) [21]
Hà Tĩnh là một tỉnh có tiềm năng sản xuất và XKTS rất lớn. Trong những năm qua, XKTS của Hà Tĩnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Hà Tĩnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng, XKTS của Hà Tĩnh còn ở mức độ khiêm tốn.
Mặt khác, XKTS của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới. Hàng TSXK của Hà Tĩnh hiện phải cạnh tranh quyết liệt với hàng TS của nhiều địa phương khác và của nhiều nước khác cũng có điều kiện tương đồng như Việt Nam. Chẳng hạn Trung Quốc, một số nước ASEAN.
Hơn nữa, hàng TSXK của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam hiện đang đứng trước những rào cản mới. Đó là những quy định khắt khe của Chính phủ các nước NKTS về VSATTP, các điều kiện kỹ thuật,…Trong nhiều trường hợp, việc vượt qua những rào cản này còn khó khăn gấp bội so với hàng rào thuế quan trước đây. Trong khi đó, chất lượng hàng TSXK của Hà Tĩnh chưa cao. Chính sách hỗ trợ XKTS còn hạn chế và bị ràng buộc bởi những quy định của WTO. Hoạt động XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này ở Hà Tĩnh còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể khai thác tốt hơn lợi thế của mặt hàng XK chủ lực này, đảm bảo cho hàng TSXK có thể trở thành mặt hàng mũi nhọn, có thể đứng vững và có uy tín trên thị trường quốc tế? Điều đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này của Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp thúc đẩy hơn nữa XKTS trong giai đoạn tới.
Đây cũng là lý do tôi chọn vấn đề: “Giải phỏp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, lĩnh vực XK hàng hoá nói chung và XKTS nói riêng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, nhiều đề tài, công trình được công bố:
- Bộ Thương Mại: “Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000-2010” đề tài khoa học cấp bộ mã số: 1999-78-161, năm 2004
- Bộ Thương Mại: “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”, năm 2006.
- Bộ Thương Mại: “Yếu tố môi trường trong phát triển xuất khẩu nông sản ở nước ta”, đề tài khoa học cấp bộ mã số: 2001-78- 069, năm 2003.
- Nguyễn Trọng Liên: “Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong tình hình mới qua thực tế ở Quảng Ninh”, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003.
- Hoàng Thị Ngọc Loan: “Thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA”, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Bộ Thương Mại: “Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông sản, TS, hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản", đề tài khoa học cấp bộ, mã số đề tài: 2003-78- 013, năm 2004.
- Nguyễn Văn Hùng: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá”, luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị Hành chính - Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Trần Khắc Xin: "Phát triển xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Mặc dù, các đề tài đã hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về hoạt động XK của một số mặt hàng, một số thị trường xuất khẩu, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức Thương Mại thế giới, những thay đổi, các động thái kinh tế của các nước đều ảnh hưởng cả gián tiếp và trực tiếp vào thị trường nước ta, do đó vấn đề bức thiết, cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm góp phần thúc đẩy xuất khẩu nói chung và TS nói riêng, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu.
Tính đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung vào XKTS và QLNN về XKTS. Chính vì vậy, đây là vấn đề bức thiết cần tập trung nghiên cứu nhằm góp phần phục vụ phát triển KT-XH của tỉnh, phù hợp với xu thế đổi mới nền kinh tế của đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất một số giải pháp QLNN nhằm đẩy mạnh XKTS của Hà Tĩnh trong thời kỳ tới.
Để thực hiện mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về XKTS, QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh.
- Phân tích đánh giá thực trạng XKTS, QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh trong thời gian qua.
- Trên cơ sở những phân tích đánh giá đó, cùng với những dự báo về XKTS của Việt Nam cũng như thị trường TS thế giới, đề xuất một số giải pháp QLNN nhằm đẩy mạnh XKTS của Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh
- Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu QLNN ở khâu xuất khẩu. Tuy nhiên, để đảm bảo nâng cao chất lượng TSXK, đề tài cũng đề cập tới đến khâu sản xuất, chế biến như là một giải pháp điều kiện. Mặt khác, hàng TSXK được nghiên cứu khảo sát trong đề tài bao gồm tôm, cá, mực...
Về thời gian, vấn đề được nghiên cứu trong giai đoạn từ 2001 - 2008, số liệu cập nhật đến 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên lý luận về QLNN về kinh tế nói chung, các văn bản, Nghị quyết của Chính phủ, của tỉnh về phát triển ngành thủy sản.
- Phương pháp cụ thể: luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgic-lịch sử...
6. Một số đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh.
- Luận văn có thể dùng là tài liệu tham khảo giúp UBND tỉnh Hà Tỹnh đề ra các giải pháp mang tính khả thi trong công tác XKTS của tỉnh thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về quản lý Nhà nước đối với XUấT KHẩU THUỷ SảN của hà tĩnh
1.1. khái quát chung về QUảN Lý NHà NƯớC đối với XUấT KHẩU THUỷ SảN của hà tĩnh
1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản
Theo nghĩa chung nhất, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý, nhằm đạt mục tiêu đề ra [ 20, tr.11].
QLNN là hoạt động của bộ máy Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước. Đó là sự tác động của chủ thể quản lý bằng quyền lực Nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý. Bốn lĩnh vực hoạt động QLNN do bộ máy QLNN thực hiện là:
- Hoạt động của hệ thống các cơ quan quyền lực.
- Hoạt động của hệ thống các cơ quan xét xử.
- Hoạt động của hệ thống các cơ quan kiểm sát.
- Hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính.
Các cơ quan hành chính Nhà nước tiến hành quản lý hành chính Nhà nước trên lĩnh vực hành pháp, đó là hành chính công quyền. Bộ máy thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm duy trì trật tự xã hội và thỏa mãn các lợi ích xã hội với hai chức năng cơ bản là chấp hành và điều hành.
Chấp hành: pháp luật, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên và các nghị quyết của cơ quan quyền lực, các chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình của Nhà nước.
Điều hành: thông báo, truyền đạt các biện pháp đối với cấp dưới; chỉ đạo thực hiện các hoạt động hiệu quả.
Theo nghĩa rộng, QLNN về kinh tế được thực hiện thông qua cả 3 loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, QLNN về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước, nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp.
Tuy nhiên, trong luận văn này, khái niệm QLNN về kinh tế được tiếp cận theo nghĩa rộng, tức là QLNN về kinh tế được thực hiện thông qua cả 3 loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. QLNN về kinh tế là những tác động của các cơ quan QLNN có chức năng và thẩm quyền nhất định tới các hoạt động KT-XH, bằng các công cụ, chính sách, phương pháp có tính chất Nhà nước nhằm đạt mục tiêu định trước.
QLNN đối với XKTS là một trong những nội dung cơ bản của QLNN về kinh tế và QLNN đối với hoạt động XK.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể xác định khái niệm về QLNN đối với XKTS như sau:
QLNN đối với XKTS là những tác động của cơ quan QLNN có chức năng, thẩm quyền nhất định tới các hoạt động XKTS, bằng các công cụ, chính sách, phương pháp có tính chất Nhà nước, nhằm đạt được các mục tiêu đã định trước.
Phân tích khái niệm này, chúng tôi muốn làm rõ bốn điểm.
Một là, về chủ thể QLNN đối với XKTS
Chủ thể quản lý về XKTS là Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan QLNN có chức năng, thẩm quyền ở Trung ương và địa phương quản lý hoạt động XKTS.
ở Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ có chức năng QLNN về kinh tế, trong đó có QLNN về XKTS. ở đây, Bộ NN & PTNT và Bộ Công Thương đóng vai trò quan trọng, trực tiếp QLNN đối với XKTS.
ở địa phương, cơ quan QLNN đối với XKTS (chủ thể quản lý) được tổ chức ở cấp tỉnh và cấp huyện.
ở cấp tỉnh chủ thể QLNN về XKTS bao gồm HĐND tỉnh, UBND tỉnh, các Sở, Ban ngành liên quan đến QLNN đối với XKTS. Trong đó, Sở NN & PTNT, Sở Công Thương có chức năng trực tiếp tham mưu cho UBND tỉnh về lĩnh vực XKTS.
ở cấp huyện, chủ thể QLNN về XKTS là các cơ quan tương ứng như cấp tỉnh. Đó là HĐND huyện, UBND huyện, các phòng ban liên quan tới XKTS ở huyện, như phòng NN & PTNT, phòng Công thương, Chi cục thuế huyện.
Ngoài ra, chủ thể QLNN đối với XKTS còn là các cơ quan bảo vệ pháp luật gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Thanh tra nhà nước. Các cơ quan này có chức năng kiểm tra, kiểm soát, bảo vệ quyền lực Nhà nước, xét xử các vi phạm pháp luật và tranh chấp trong các hoạt động kinh tế nói chung, XKTS nói riêng.
Trong luận văn này, chủ thể QLNN đối với XKTS được xem xét là các cơ quan QLNN cấp tỉnh của Hà Tĩnh (HĐND, UBND tỉnh Hà Tĩnh và các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh như Sở NN & PTNT, Sở Công Thương Hà Tĩnh…).
Hai là, đối tượng của QLNN là lĩnh vực XKTS. Lĩnh vực XKTS được xem xét ở đây bao gồm khai thác, NT, chế biến và XKTS.
ở cấp Trung ương, quản lý hoạt động này được thực hiện trên phạm vi cả nước. Cấp tỉnh, huyện quản lý lĩnh vực này trên phạm vi lãnh thổ mình quản lý. Tuy nhiên, sự phân cấp này chỉ mang tính tương đối. Bởi vì trên địa bàn tỉnh, huyện có nhiều khi có những cơ quan đơn vị, lĩnh vực cũng tham gia các hoạt động XKTS nhưng không thuộc cơ quan quản lý của địa phương. Chẳng hạn, như Cảng vụ Hà Tĩnh, Cục Hải quan Hà Tĩnh,...
Ba là, về mục tiêu quản lý Nhà nuớc về XKTS
Mục tiêu quản lý là đích phải đạt tới trong quá trình quản lý, do chủ thể quản lý đề ra. Mục tiêu QLNN đối với XKTS phải được xác định trước, chi phối, dẫn dắt cả hệ thống quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Mục tiêu của QLNN đối với XKTS nhằm làm cho hoạt động XKTS có hiệu quả, phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, của đất nước, góp phần vào thực hiện chiến lược CNH hướng vào XK của quốc gia. Các mục tiêu chung của XKTS bao gồm:
- Khơi dậy nội lực và ngoại lực thúc đẩy XKTS, nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh của địa phương cho phát triển XKTS.
- Thúc đẩy xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất đời sống nhân dân trong nước, phục vụ quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, tăng tỷ trọng kinh tế TS.
- Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong ngành TS.
Mục tiêu cụ thể của QLNN đối với XKTS là tổng giá trị và tốc độ tăng KNXK TS, khối lượng TSXK, thị trường XKTS, mặt hàng TSXK; tỷ trọng sản lượng TS chế biến XK, tăng hàm lượng TS chế biến sâu. Các chỉ tiêu này được đưa ra hàng năm, kỳ kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, hoặc trong các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh.
Bốn là, về cơ chế quản lý đối với lĩnh vực XKTS
Cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn hiện nay là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác [23, tr.46]. Như vậy, cơ chế quản lý kinh tế bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành, đó là các luật liên quan, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, chính sách, quy chế, quy định của Nhà nước Trung ương và địa phương. Pháp luật được coi là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì nó là công cụ chủ yếu của Nhà nước được sử dụng để quản lý nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng. Cơ chế quản lý XKTS bao gồm các yếu tố như các Luật về TS, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá, Pháp lệnh VSATTP, Pháp lệnh thú y..., các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án về XKTS... Hệ thống các văn bản pháp qui là công cụ chủ yếu mà chính quyền địa phương sử dụng nhằm phối hợp thống nhất các luật mà Nhà nước đã ban hành để vận dụng vào quá trình quản lý XKTS.
Các Luật, Nghị định, Quyết định phê duyệt chương trình dự án ,... sau khi được Chính phủ phê duyệt, được các Bộ chức năng, UBND các cấp, các sở chức năng ở tỉnh cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy (Quyết định, Thông tư, Quy định...). Đây là cơ sở pháp lý cho QLNN cấp quốc gia, cấp tỉnh.
QLNN đối với XKTS ở cấp tỉnh chủ yếu dựa trên hệ thống văn bản quản lý XKTS mà Chính phủ và các Bộ đã ban hành như Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển TS, chiến lược XKTS, chương trình XKTS, đề án XKTS, chương trình xúc tiến XKTS,...
1.1.2. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản
Trong nền KTTT, Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Thực hiện QLNN về kinh tế, trong đó có QLNN đối với lĩnh vực XKTS, Nhà nước có các vai trò sau:
Thứ nhất, Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho phát triển XKTS. Đó là Nhà nước xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chính sách khuyến khích XKTS như: Luật TS, Luật Thương mại, Luật chất lượng, sản phẩm hàng hoá, Chiến lược XK, Chương trình XK. Nhà nước ban hành các chính sách khuyến khích XK như các chương trình đánh bắt, khai thác, NT, chế biến TS, chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia…Trên cơ sở đó, các ngành, địa phương, với chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai thực hiện, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình phát triển XKTS, xây dựng các quỹ hỗ trợ XKTS, quỹ bảo hiểm rủi ro trong XKTS...
Đây là khung khổ pháp lý cho các hoạt động XKTS phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực XKTS sẽ được tự do hoạt động trong khuôn khổ, phạm vi mà pháp luật, chính sách của Nhà nước không cấm. Đồng thời, các doanh nghiệp có định hướng chung cho sự phát triển của mình. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh TSXK cạnh tranh tự do theo quy định của pháp luật. Ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, bảo đảm hoạt động XKTS phát triển một cách ổn định.
Thứ hai, Nhà nước đóng vai trò thúc đẩy XK như xúc tiến XKTS, mở rộng thị trường XK bao gồm đàm phán mở cửa thị trường, tăng cường cung cấp thông tin thương mại TS; giúp đỡ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu hàng TSXK, thương hiệu doanh nghiệp XKTS..., hỗ trợ các chủ thể hoạt động XKTS tham gia hội chợ TS ở nước ngoài, trong nước; đàm phán, tìm kiếm bạn hàng, ký kết hợp đồng XKTS...
Thứ ba, Nhà nước khuyến khích XKTS bằng các chính sách miễn, giảm thuế, chính sách đất đai, vốn, công nghệ, xúc tiến XK…
Thứ tư, với tư cách là người cung cấp hàng hoá công cộng, Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đảm bảo và tạo điều kiện để các đơn vị sản xuất kinh doanh XNK TS hoạt động thuận lợi. Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu quản lý để điều tiết nền kinh tế phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, thông qua quản lý quy hoạch phát triển XKTS, Nhà nước có thể điều chỉnh được cơ cấu kinh tế ngành, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, tổ chức khai thác bền vững nguồn lợi TS.
Thứ sáu, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội ngành nghề sản xuất, chế biến, XKTS hoạt động có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích việc thành lập tự nguyện các hiệp hội của những ngành nghề khác nhau hay hiệp hội ở các địa phương khác nhau nhằm có biện pháp hỗ trợ phát triển cho các đơn vị khai thác, NT, chế biến, XKTS. Từ đó, Nhà nước có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các cơ sở, và về phía các hiệp hội cũng có những ý kiến đóng góp xác đáng, mang tính thực tiễn cho các cơ quan Nhà nước hoạch định những cơ chế chính sách phát triển XKTS.
Thứ bảy, Nhà nước xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức...của các hoạt động XK, lấy tiêu chuẩn quốc tế làm nền tảng của mình, có sự điều tiết của Nhà nước cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhà nước có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp XKTS ở nước ngoài trong trường hợp Chính phủ nước ngoài áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử, hoặc cản trở hoạt động XKTS của các doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản
Trước hết, quy mô và năng lực quản lý điều hành của bộ máy Nhà nước cả Trung ương và địa phương có tác động đến hoạt động XKTS. Bộ máy tinh gọn, hiệu quả, sẽ tiết kiệm chi thường xuyên, tăng các khoản chi cho đầu tư phát triển XKTS, đồng thời có khả năng thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, nhất là các nguồn đầu tư nước ngoài cho các chương trình mục tiêu Chính phủ về phát triển XKTS. Yếu tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức và cán bộ là trình độ cán bộ làm công tác quy hoạch, kế hoạch, công tác hoạch định và thực thi các chính sách phát triển XK... Nếu đội ngũ cán bộ này thật sự có năng lực, phẩm chất tốt thì sẽ tham mưu cho chính quyền địa phương quản lý hoạt động XKTS có hiệu quả, góp phần thúc đẩy XKTS phát triển.
Thứ hai, cơ chế, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương sẽ tạo ra hành lang thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển. Trước hết là hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Thương mại, Luật TS, Luật Tài nguyên môi trường, Luật Đầu tư; các văn bản quản lý về XKTS, quản lý về VSATTP TS, sau đó là các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư phát triển TS, có tác động thúc đẩy các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực khai thác, NT và chế biến, XKTS. Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ trong các văn bản chính sách hoặc các chính sách thiếu chặt chẽ, kiểm soát không tốt ở một số địa phương, một số lĩnh vực có thể dẫn đến bất ổn trong hoạt động XKTS . Thực tế, ở nước ta trong thời gian qua, những hạn chế trong cơ chế chính sách đã dẫn đến hệ quả là chương trình đánh bắt xa bờ đã thất bại. Cơ chế vay vốn đóng tàu quá dễ dàng và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, trong khi đó không tính được ngư dân đã dốc hết vốn đầu tư cho đóng tàu, vốn lưu động để ra khơi đánh bắt hải sản thiếu, đã dẫn đến hàng trăm tàu sau khi nghiệm thu, không được khai thác sử dụng.
Thứ ba, môi trường chính trị ổn định, sự đồng thuận trong xã hội, các điều kiện môi trường tự nhiên là nhân tố quan trọng để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực XKTS. Thực tế cho thấy, những năm qua, các quốc gia có nền chính trị kém ổn định như Pakistan, vùng Trung Đông, Thái Lan, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Tại Thành phố Đà Nẵng, các điều kiện về môi trường tự nhiên thuận lợi, chính trị ổn định, không khí đồng thuận xã hội và tinh thần hăng say sáng tạo của các doanh nghiệp đã là nhân tố quan trọng đưa Đà Nẵng trở thành một trong những thành phố dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, về tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng XK nói riêng.
Thứ tư, mức độ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam có ảnh hưởng tới QLNN đối với XKTS.
Nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thì sự ảnh hưởng của kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam, tới hoạt động sản xuất, chế biến TSXK càng lớn. Bởi lẽ, trong điều kiện đó, hoạt động sản xuất, chế biến TSXK rất có thể sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với TSNK. Các doanh nghiệp chế biến và XKTS sẽ có thể sử dụng nguyên liệu TSNK để chế biến và sau đó tái xuất. Điều này đã từng xảy ra ở Việt Nam. Theo đó QLNN đối với lĩnh vực XKTS phải có những đổi mới, điều chỉnh để đảm bảo tối đa hóa lợi ích quốc gia và đảm bảo lợi ích của người đánh bắt, NT TSXK, lợi ích của các doanh nghiệp chế biến TSXK và các doanh nghiệp XKTS.
Mặt khác, trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO và ký kết hiệp định thương mại với nhiều nước, Việt Nam phải thực hiện nhiều cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư, trong đó các cam kết về XK nói chung, cam kết về hỗ trợ nông nghiệp nói riêng. Theo đó, các quy định trong QLNN đối với lĩnh vực XKTS cũng phải đổi mới, điều chỉnh phù hợp với các cam kết quốc tế. Chẳng hạn, theo quy định của Quốc tế, các biện pháp về hỗ trợ trực tiếp đối với XKTS sẽ có xu hướng giảm dần, thay vào đó là các biện pháp hỗ trợ gián tiếp. Hoặc như, đối với tiêu chuẩn VSATTP, hầu hết các nước tiến tiến trên thế giới đều áp dụng tiêu chuẩn HACCP trong quản lý chất lượng sản phẩm TS.
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nhà quản lý phải thay đổi cách nghĩ, cách quản lý thích ứng với điều kiện mới là phải tuân thủ luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế trong XKTS, đổi mới thể chế XNK, đổi mới các chính sách XKTS.
Một điểm nữa, trong điều kiện mở cửa và hội nhập nền kinh tế quốc tế, QLNN còn chịu ảnh hưởng của các nước bạn hàng (các nước NKTS và các nước XKTS cạnh tranh với Việt Nam trên trường quốc tế). Trong điều kiện các doanh nghiệp nước ta XK sang các nước đã ký kết các hiệp định thương mại, các tiêu chuẩn để công nhận sản phẩm TS của nhau, thì việc QLNN đối với XKTS thuận lợi hơn. Trái lại, trong điều kiện cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp XKTS trên thế giới, các nước thường áp dụng các chính sách bảo hộ. Theo đó, họ đưa ra các đạo luật nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như luật chống bán phá giá, luật cạnh tranh không bình đẳng, luật sở hữu trí tuệ... Ngoài ra các nước đưa ra các rào cản thương mại như rào cản về ATVSTP, an toàn dịch động vật, bảo vệ động vật quý hiếm, môi sinh môi trường. Trong điều kiện đó, QLNN phải có những đối sách phù hợp, bảo đảm hoạt động XKTS của các doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản đó, hoặc hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp thương mại, theo đuổi các vụ kiện mới...
1.2. nội dung của quản lý Nhà nước đối xuất khẩu thuỷ sản ở cấp tỉnh
1.2.1. Xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển xuất khẩu thủy sản
KTTT có nhiều ưu điểm song chúng cũng có không ít những hạn chế khuyết tật. Những hạn chế, khuyết tật của thị trường có thể dẫn đến sự đổ vỡ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, theo đó gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Để đảm bảo cho hoạt động XKTS phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả, hạn chế những bất lợi từ thị trường, Nhà nước xây dựng các quy hoạch phát triển XKTS, kế hoạch, đề án phát triển XK.
Chương trình phát triển XKTS được xây dựng nhằm đề ra những mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển XKTS quốc gia, góp phần thực hiện chiến lược phát triển XK, chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia trong từng thời kỳ. Thông thường, chương trình XKTS được xây dựng cho khoảng thời gian khá dài, 10 - 15 năm. Xây dựng chương trình XKTS của quốc gia là một nội dung của QLNN về XKTS, thể hiện những quan điểm chủ đạo chung của Nhà nước đối với XKTS, thể hiện định hướng, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ chủ yếu của XKTS. Chương trình cũng đưa ra các giải pháp chính nhằm phát triển XKTS. Chương trình XKTS quốc gia thường do Bộ TS (nay là Bộ NN & PTNT) xây dựng và được Chính Phủ phê duyệt. Ngoài chương trình chung của quốc gia, còn có các chương trình XKTS vùng, lãnh thổ. Đây là bộ phận của chương trình phát triển KT-XH vùng lãnh thổ do Bộ NN & PTNT xây dựng.
ở cấp tỉnh, có các chương trình phát triển XK của tỉnh, trong đó có chương trình phát triển XKTS. Dự thảo Chương trình XKTS của tỉnh do Sở NN & PTNT và Sở Công thương phối hợp xây dựng, trên cơ sở đóng góp ý kiến của các ngành, các cấp, các địa phương. Sau đó, dự thảo này được trình lên UBND tỉnh xem xét và phê duyệt. Chương trình XKTS của tỉnh thường được xây dựng cho thời kỳ 10 năm. Chương trình XKTS c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van sua lan cuoi.doc
- bia, muc luc.doc