Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.

 

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh. Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.

 

Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn.

 

Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, em đã quyết định chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”.

 

 

Chia làm 3 chương:

 

Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại.

 

Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.

 

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.

 

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền... Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh... Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn. Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, em đã quyết định chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”. Chia làm 3 chương: Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam. Chương I: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại I - Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng 1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân : Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi. Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh. Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời. Mặt khác do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó. Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?. "Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay " Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời. Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau: Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi biết tận dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè không những đem lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền kinh tế. Song để mua được một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải cần một lượng vốn rất lớn mà nếu một mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó có một số người khác có một món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm. Nếu tôi, những người đó gặp nhau và những người đó cung cấp vốn cho tôi thì kế hoạch của tôi sẽ trở thành hiện thực. Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi - người thiếu vốn và những người thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những ngưòi có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kỳ ai cũng có khả năng đầu tư hoặc vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển. 2. Các hình thức tín dụng ngân hàng : Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro. Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng: - Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau: + Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. + Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệp, thương mại, dịch vụ.+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động... + Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. - Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau: + Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng. . Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản, trong suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho thuê... . Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho thuê. + Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn. Ví dụ: Hội nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam. - Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau: + Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp... + Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua. - Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau: + Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng. + Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán gồm các hình thức: Chiết khấu thương mại. Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp ( factoring): Là dịch vụ mua các yêu cầu ( giấy đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các yêu cầu này. Các yêu cầu ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát sinh do cung cấp hàng hoá. Tín dụng chứng từ... - Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau: + Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng (1 năm). Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân... + Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng (5 năm). Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh. + Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới... thời hạn thu hồi vốn lâu. II - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế : Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta trong những năm qua. Và để đạt được những kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất thì không có hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày một phát triển. Biểu hiện: 1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn : Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của các ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch vụ của ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của ngân hàng. Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của ngân hàng. Ơ đây các ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có cơ hội không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Nguồn vốn nhàn rỗi mà ngân hàng huy động bao gồm: + Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền của xí nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập thuần tuý sáng tạo từ các xí nghiệp sản xuất... + Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư... Bằng các hình thức khác nhau ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn đó về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời ngân hàng sẽ tiến hành khai thác và sử dụng một cách triệt để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao tránh tình trạng vốn chết, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp... Ngoài ra khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả vốn gốc + lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp đồng tín dụng. Do đó buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng bằng cách động viên vật tư hàng hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ với ngân hàng. Như vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát,thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. 2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển : Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra? Và tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho các doanh nghiệp.Ơ nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều nước trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của xã hội đòi hỏi các ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doanh nghiệp. Muốn vậy các ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy các ngân hàng mới có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển. 3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ : Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các ngân hàng đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ. Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên thị trường mà không có sự quản lý của nhà nước nhằm mục đích ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát - một vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh. Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn : Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trước khi cho vay ngân hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay ngân hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn vay được vốn các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, ngân hàng có khả năng thu hồi được vốn. Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. 5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển : Hoạt động tín dụng của ngân hàng là tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội của các tổ chức, cá nhân để cho các đơn vị kinh tế vay. Nhưng không phải tất cả các chủ thể có nhu cầu vay đều được ngân hàng đáp ứng, bởi để tránh rủi ro tín dụng các ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư tập trung vào một các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong điều kiện đất nước ta hiện nay một bộ phận lớn dân cư đang sống bằng nghề nông. Ơ hầu hết các tỉnh miền núi vấn đề đưa máy móc vào nông nghiệp còn rất hạn chế nguyên nhân ở đây là do thiếu vốn. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt thông qua công tác tín dụng Nhà nước cần tập trung vào phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá tham gia vào các quan hệ kinh tế mang tính chất quốc tế. Bởi vậy chúng ta cần phải tập trung vào việc phát triển các ngành mũi nhọn như: công nghiệp chế biến, dầu khí... và tín dụng ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản góp phần quan trọng vào việc phát triển các ngành này điều đó được thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án, các chương trình trọng điểm để khai thác triệt để nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Với một chính sách tín dụng và mức lãi suất hợp lý sử dụng trong việc khuyến khích phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn sẽ là một công cụ linh hoạt tích cực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách vững chắc. 7. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội : Trong những năm qua với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước cùng với sự cố gắng của tất cả các thành viên trong xã hội nước ta đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, tăng thu nhập, đời sống nhân dân được cải thiện... Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã nẩy sinh các vấn đề xã hội lớn: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị này càng doãng rộng, tham nhũng có dấu hiệu gia tăng cả về quy mô và số vụ, thất nghiệp ở tỷ lệ cao... Nhận thức sâu sắc thực trạng này, các nghị quyết của Đảng luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng với công bằng, giải quyết các yêu cầu về công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng và tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục tình trạng này. Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần dần khắc phục được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung nguồn vốn cho một vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt tới một mục tiêu nào đó. Tín dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường gọi là lãi suất ưu đãi. Bằng cách các ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho người nghèo, người khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100775.doc
Tài liệu liên quan