Trong những năm qua cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, việc đa dạng hóa hình thức sở hữu là một trong những vấn đề mấu chốt của đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Từ chỗ chỉ công nhận hai thành phần kinh tế cơ bản (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể), đến nay mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP; bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp đã làm cho các thành phần kinh tế phát triểm và góp phần ổn định xã hội. Một trong những nội dung của đa dạng hóa hình thức sở hữu là vấn đề sắp xếp, đổi mới các công ty nhà nước (trước đây thường gọi là DNNN).
Việc đổi mới, sắp xếp các công ty nhà nước đã được bắt đầu từ năm 1992, hiện nay, Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp ở các Tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty. Quá trình đổi mới, sắp xếp các doanh nhà nước đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, song vẫn tồn tại những vấn đề hậu sắp xếp, đổi mới cần phải được quan tâm, giải quyết trên cả nước nói chung và ở Nghệ An nói riêng.
Ở Tỉnh Nghệ An, công tác CPH các DNNN về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên, vốn nhà nước trong các doanh nghiệp không thuộc đối tượng cần nắm giữ vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nói chung và trong các CTCP nói riêng đã được đề cập ở nhiều văn bản. Tuy vậy, vấn đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau cần đi đến thống nhÊt nhằm đưa ra cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các CTCP làm sao để có hiệu quả cao nhất.
Đối với tỉnh Nghệ An, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc nâng cao năng lực quản lý vốn nhà nước trong các CTCP của tỉnh nhằm đảm bảo cân đối các nguồn vốn, tạo ra sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An là rất cần thiết.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện quản lý vốn nhà nước trong các CTCP của tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
111 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện quản lý vốn nhà nước trong các công tác cổ phần của tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài
Trong những năm qua cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, việc đa dạng hóa hình thức sở hữu là một trong những vấn đề mấu chốt của đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Từ chỗ chỉ công nhận hai thành phần kinh tế cơ bản (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể), đến nay mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển các DNNN kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP; bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; xóa bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp đã làm cho các thành phần kinh tế phát triểm và góp phần ổn định xã hội. Một trong những nội dung của đa dạng hóa hình thức sở hữu là vấn đề sắp xếp, đổi mới các công ty nhà nước (trước đây thường gọi là DNNN).
Việc đổi mới, sắp xếp các công ty nhà nước đã được bắt đầu từ năm 1992, hiện nay, Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp ở các Tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty. Quá trình đổi mới, sắp xếp các doanh nhà nước đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, song vẫn tồn tại những vấn đề hậu sắp xếp, đổi mới cần phải được quan tâm, giải quyết trên cả nước nói chung và ở Nghệ An nói riêng.
Ở Tỉnh Nghệ An, công tác CPH các DNNN về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên, vốn nhà nước trong các doanh nghiệp không thuộc đối tượng cần nắm giữ vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nói chung và trong các CTCP nói riêng đã được đề cập ở nhiều văn bản. Tuy vậy, vấn đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau cần đi đến thống nhÊt nhằm đưa ra cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các CTCP làm sao để có hiệu quả cao nhất.
Đối với tỉnh Nghệ An, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc nâng cao năng lực quản lý vốn nhà nước trong các CTCP của tỉnh nhằm đảm bảo cân đối các nguồn vốn, tạo ra sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An là rất cần thiết.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện quản lý vốn nhà nước trong các CTCP của tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến quản lý vốn nhà nước ở các doanh nghiệp, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, theo phạm vi nghiên cứu khác nhau. Các công trình nghiên cứu về vốn nhà nước chủ yếu đề cập đến quá trình đổi mới cơ chế quản lý nói chung và quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN từ thời kỳ bao cấp đến nay. Gần đây nhất, đã có một số công trình nghiên cứu như: “Đổi mới quản lý vốn nhà nước tại các CTCP trên địa bàn Hà Nội” (luận văn thạc sĩ kinh tế của Ngô Văn Mơ); “Đổi mới quản lý vốn nhà nước tại DNNN ở nước ta hiện nay” (luận văn thạc sĩ Ngô Thị Ngọc Anh); “Đổi mới quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” (luận văn thạc sĩ Trần Công Tỏ)... Tuy nhiên, những đề tài này chưa đề cập sâu vai trò của người đại diện quản lý phần vốn nhà nước trong mô hình Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng như mối quan hệ giữa chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Từ lý luận, thực tiễn, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới cơ chế, t¹o lËp môi trường pháp lý nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước trong các CTCP thuộc tỉnh Nghệ An.
Nhiệm vụ: Với mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận về quản lý vốn nhà nước.
- Đánh giá, phân tích thực trạng quản lý vốn nhà nước trong các CTCP ở tỉnh Nghệ An; tìm ra các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý vốn nhà nước trong các CTCP. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn trong các CTCP Nghệ An, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các CTCP và tình hình thực hiện quản lý vốn nhà nước tại các CTCP được chuyển đổi từ công ty nhà nước thuộc tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; Nghị quyết và các giải pháp tổ chức thực hiện cơ chế chính sách của của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Nghệ An nhằm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn v.v...
6. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn
Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại các công ty nhà nước chuyển đổi sang hoạt động cổ phần, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội theo hướng bền vững của tỉnh Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn nhà nước tại các CTCP trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Ngoài ra, luận văn còn đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường sự phối hợp giữa cổ đông (SCIC) với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhằm góp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước của tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
VỐN NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1.1. Vốn và các loại hình về vốn
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của vốn
* Khái niệm
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển có nhu cầu vốn rất lớn để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vèn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng để đầu tư phát triển nền kinh tế hội nhập tốt vào nền kinh tế thế giới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, khái niệm vốn được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái kinh tế trước C.Mác đã dày c«ng nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế.
Kế thừa, chọn lọc tư tưởng của các nhà tiền bối, khi nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, C.Mác đã khẳng định: "Như vậy là giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo tồn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy biến giá trị đó thành tư bản" [17, tr.228].
Khẳng định trên của C.Mác đã vạch rõ bản chất và chức năng của tư bản (vốn) trong phát triển kinh tế. Bản chất của tư bản là giá trị; chức năng của tư bản là sinh lời. Tuy nhiên, để giá trị trở thành tư bản và tư sản sinh lời phải trải qua sự vận động. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở và lớn lên không ngừng.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn không chỉ là yếu tố cần thiết đối với quá trình sản xuất của các nước phát triển mà còn là yếu tố đóng vai trò quan trọng của hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều bình diện khác nhau.
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, trong ấn phẩm Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ, tác giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức" [16, tr.29].
Dưới góc độ nhân tố đầu vào, trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng kinh tế, I.Đ.Udanxốp và F.I.Pôlianxki kết luận: Vốn là "một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (tức là máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm" [13, tr.11].
Ở Việt Nam, cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học cũng chỉ ra rằng: Vốn là "tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh nhằm sinh lợi" [32, tr.1126].
Những cách tiếp cận trên đây về vốn đã nêu rõ tính đa dạng, nhiều hình thái tồn tại của vốn. Vốn có thể coi là tiền hay tài sản được giá trị hoá. Mặt khác, với tư cách là vốn thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra hàng hoá, dịch vụ nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai. Nghĩa là, vốn luôn gắn với sự vận động vµ đảm nhiệm chức năng sinh lời.
* Bản chất của vốn
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất của vốn cần nhận thức ë nh÷ng gãc ®é sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thành giá trị. Giá trị của nó được ứng ra để chuyển hoá nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá trình sản xuất, giá trị lớn lên không ngừng.
- Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, bao gồm: tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Những tài sản này tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đồng thời làm tăng giá trị.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ thể: tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Nhưng, hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hoá nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song, với khả năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách có hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh doanh của mình.
Thứ hai, vốn là hàng hoá đặc biệt
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hoá. Muốn phát triển sản xuất - kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư được xem là cơ sở phát sinh quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi, mua bán trên thị trường. Với tư cách là hàng hoá, vốn có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; có chủ sở hữu và là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Tính đặc biệt của "hàng hoá vốn" thể hiện ở chỗ: vốn có khả năng sinh lời. Với tư cách là hàng hoá đặc biệt, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Đặc điểm này của vốn không có ở các loại hàng hoá thông thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vèn cho người mua (các nhà đầu tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản gọi là chi phí (giá mua quyền sử dụng vốn). Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời.
Thứ ba, vốn có mối quan hệ mật thiết với thời gian
C.Mác viết:
tiền chỉ được đem nhượng lại với điều kiện, một là, nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là, nó sẽ quay trở về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực hiện được cái giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư [18, tr.525].
Như thế, chủ sở hữu vốn nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu tư trong một khoảng thời gian xác định. Sau khi vốn trải qua chu kỳ vận động, nó quay về tay chủ sở hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn hay là lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với lượng vốn khi chủ sở hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo đơn vị thời gian (tháng, quý, năm...), phù hợp với nền kinh tế thị trường. Sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian xác định tất yếu dẫn đến quá trình tích tụ, tập trung vốn từ những khoản tiết kiệm nhỏ, lẻ; những đồng tiền chưa có cơ hội đầu tư trở thành vốn và chuyển chúng đến tay các nhà đầu tư. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, khi tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, các nhà đầu tư luôn chú trọng tới yếu tố thời gian. Bởi vì, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá... biến động thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ một nhà đầu tư nào, khi xác định hiệu quả đầu tư cũng phải đưa toàn bộ chi phí và thu nhập về cùng một thời điểm để so sánh, tính toán các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất doanh lợi/ vốn, tỷ suất doanh lợi/ doanh thu, vòng quay của đồng vốn,vv... Điều đó cắt nghĩa được tại sao vốn luôn có giá trị về mặt thời gian (gắn với thời gian).
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu, vốn là tổng giá trị của những tài sản (tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính) tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai.
1.1.1.2. Các loại hình về vốn
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau. Dưới đây là một số loại vốn cơ bản:
+ Dựa vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại: vốn trong nước và vốn ngoài nước.
+ Dựa vào đặc điểm vận động, vốn có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định được biểu hiện bằng tiền của những tài sản cố định, bao gồm: Nhà cửa, vật kiến trúc; Máy móc, thiết bị; Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn; Thiết bị, dụng cụ quản lý; Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm; Quyền sử dụng đất; Chi phí về bằng phát minh sáng chế; Chi phí nghiên cứu phát triển …. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp, bao gồm: những vật tư dự trữ như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu … và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất; Sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước …
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: Vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn dưới một năm. Vốn trung hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ một năm đến dưới năm năm. Vốn dài hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ năm năm trở lên.
+ Dựa vào quan hệ sở hữu, vốn có hai loại: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay (huy động từ bên ngoài). Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của mét hoặc nhiều chủ thể sở hữu. Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng lượng vốn của chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất.
+ Dựa vào phương thức sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, hàng hoá mà còn cần vốn phục vụ gián tiếp cho sản xuất, bao gồm khối lượng lớn và phong phú hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng...
+ Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và những chứng chỉ có giá (cổ phiếu, trái phiếu...), vốn chia thành hai loại: vốn thực (tư bản thật) và vốn ảo (tư bản giả)...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, song xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - là hình thái giá trị, là thứ hàng hoá đặc biệt, có mối quan hệ mật thiết với thời gian và nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp.
1.1.1.3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết để khởi sự kinh doanh. Mọi doanh nghiệp đều cần có vốn để tồn tại và phát triển. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp được thể hiện như sau:
* Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của hoạt động sản xuất kinh doanh
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần chuẩn bị các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, sức lao động, … Tất cả các yếu tố đầu vào này phải được thuê, mua sắm bằng tiền, tức là phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp. Pháp luật các nước đều quy định vốn là điều kiện bắt buộc để có thể thành lập doanh nghiệp (thông qua vốn điều lệ, vốn pháp định). Điều này xuất phát từ nhận thức vai trò vô cùng quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thực tiễn của doanh nghiệp.
* Vốn là điều kiện để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, thông suốt.
Vốn là yếu tố theo đuổi suốt quá trình hoạt động của một doanh nghiệp. Vốn tồn tại dưới nhiều hình thái tài sản và luân chuyển liên tục qua tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư vào các giai đoạn khác nhau đó.
* Vốn là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và là yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
Có vốn doanh nghiệp mới có thể đầu tư vào việc cải tiến được kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, đào tạo nâng cao trình độ người lao động, mở rộng lĩnh vực, mạng lưới kinh doanh... Đây là cơ sở để doanh nghiệp tăng năng suất lao động, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm; từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Việc kinh doanh hiệu quả giúp vốn đầu tư được bảo toàn và phát triển, giúp doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu.
* Vai trò của vốn còn thể hiện ở chức năng giám đốc tài chính
Thông qua việc phân tích đánh giá vốn có được sử dụng hiệu quả hay không, ta có thể biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không, doanh nghiệp đang trên đà phát triển hay đi xuống; từ đó, tìm ra các nguyên nhân và biện pháp giúp cải thiện tình hình tài chính, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
Như vậy, có thể thấy vốn đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó vừa là tiền đề, vừa là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, pháp luật cho phép doanh nghiệp có nhiều hình thức huy động và đầu tư vốn khác nhau. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp. Nhưng vấn đề đặt ra mang tính chất sống còn cho doanh nghiệp là làm thế nào để sử dụng đồng vốn hiệu quả, mang lại những lợi ích to lớn cho chủ doanh nghiệp và cả người lao động.
1.1.2. Vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của công ty cổ phần
* Đặc trưng của CTCP
Công ty cổ phần là một doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi phần góp vốn của mình. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, tại Chương IV, Điều 77 thì:
CTCP là doanh nghiệp, trong đó: a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết và hạn chế đối với cổ đông sáng lập [20, tr.89-90].
Công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản sau đây.
- Là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, tồn tại riêng biệt và độc lập với chủ sở hữu của nó.
- Các công ty này được tự do phát triển mọi hoạt động sản suất kinh doanh theo pháp luật quy định, đa dạng hoá hay thay đổi thậm chí đình chỉ hoạt động theo ý của công ty mà không phải tham khảo bất cứ một thẩm quyền nào.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
- CTCP phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc).
- Về vốn (tài sản) trong các công ty cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau mang đặc điểm riêng biệt, bao gồm: Vốn điều lệ; Vốn tự có; Vốn vay: Vốn vay trung và dài, nợ ngắn hạn
- Chức năng kinh tế của công ty cổ phần: chức năng kinh tế của các công ty cổ phần là sản xuất sản phẩm hàng hóa và dịch vụ để bán trên thị trường bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất, tài chính và nhân sự nhằm mục đích thu lợi nhuận.
* Ưu thế của CTCP
So với các loại hình doanh nghiệp khác thì CTCP có những lợi thế sau:
- Chế độ trách nhiệm của CTCP là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
- Khả năng hoạt động của CTCP rất rộng, trong hầu hết các lÜnh vực, ngành nghề;
- Cơ cấu vốn của CTCP hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty;
- Khả năng huy động vốn của CTCP rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của CTCP;
- Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia CTCP là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của CTCP.
Tuy nhiên Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình CTCP cũng có những hạn chế nhất định như: Việc quản lý và điều hành CTCP rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa, hình thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích; Việc thành lập và quản lý CTCP cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán. Ngoài ra, chi phí cho việc thành lập CTCP thường tốn kém; khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính trong các công ty cổ phần thường bị hạn chế; phần lớn các cổ đông thường không có kiến thức về kinh doanh và không hiểu biết lẫn nhau (thường 1 năm mới đại hội một lần). Do có sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty cổ phần nên đôi khi có sự mâu thuẫn trong lợi ích và các kết quả của đơn vị.
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của vốn nhà nước trong các công ty cổ phần
* Khái niệm
Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 thì vốn nhà nước trong các CTCP được hiểu là:
Phần vốn góp sở hữu nhà nước là phần vốn góp được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác của nhà nước do một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu.
Cổ phần sở hữu nhà nước là cổ phần được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác của Nhà nước do một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu [21, tr.12].
Và khi doanh nghiệp có vốn sở hữu của Nhà nước trên 50% vốn điều lệ gọi là DNNN.
* Vốn của Nhà nước ở các CTCP bao gồm:
- Vốn thuộc sở hữu nhà nước tại DNNN gồm tiền, giá trị quyền sử dụng đất hay tiền thuê đất, giá trị tài sản thuộc sở hữu nhà nước được DNNN đầu tư vào doanh nghiệp khác hoặc góp vốn liên doanh với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Ngân sách nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp khác.
- Giá trị cổ phần nhà nước trong DNNN đã thực hiện CPH, bao gồm cả giá trị cổ phiếu nhà nước cấp cho người lao động trong doanh nghiệp để hưởng cổ tức khi DNNN thực hiện CPH giai đoạn trước khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ có hiệu lực thi hành.
- Lợi tức được chia do việc Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác được dùng để tái đầu tư tại doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp khác có vốn đầu tư của Nhà nước hoạt động theo luật tương ứng và Điều lệ của doanh nghiệp; thực hiện chế độ báo cáo tài chính, báo cáo thống kê theo quy định của pháp luật. Khi gửi báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp đồng thời gửi cho người đại diện phần vốn nhà nước bản sao các báo cáo này.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát theo chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động của doanh nghiệp, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Vai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- bia.doc