Tín dụng Ngân hàng được coi là “đòn bẩy” quan trọng cho nền kinh tế, là nguồn vốn quan trọng, chủ động để phát triển kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của từng Ngân hàng. Cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đựng những rủi ro. Do đặc thù kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa trên tiền của người khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn cao hơn rủi ro doanh nghiệp vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của Ngân hàng và vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro trong kinh doanh dịch vụ Ngân hàng là điều khó tránh khỏi mà chủ yếu là rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thời gian gần đây rủi ro tín dụng đối với khu vực này đang là vấn đề nổi cộm đang thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngành Ngân hàng trong khi tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất to lớn nhưng chưa được phát huy. Hơn nữa rủi ro xảy ra trong Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với rủi ro trong các ngành kinh doanh khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống Ngân hàng, gây ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ hàng loạt Ngân hàng và một loạt hậu quả nghiêm trọng khác về mọi mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Chính phủ bị suy giảm. Ta có thể thấy được phần nào hậu quả của rủi ro Ngân hàng qua vụ đổ vỡ hàng loạt của gần 500 quỹ tín dụng đô thị và hàng nghìn hợp tác xã tín dụng nông thôn nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani.
Với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng đang là một vấn đề làm đau đầu các nhà quản trị Ngân hàng. Sự gia tăng của các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, thất thoát vốn tín dụng do bị lừa đảo, chiếm dụng .đã làm rung động cả một hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần và đẩy không ít các Ngân hàng kể cả Ngân hàng quốc doanh vào trạng thái co cụm không dám cho vay. Nhưng đã cho vay thì phải chấp nhận rủi ro. Trong kinh doanh Ngân hàng cũng vậy, đến các Ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất thì việc tồn tại các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi vẫn xảy ra nhưng ở mức độ thấp và rất thấp. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là cần chấp nhận rủi ro và tìm ra các biện pháp giảm thiểu nó đến mức thấp nhất có thể, để trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội, dưới sự hướng dẫn của Cô giáo PGS, TS Nguyễn Thị Bất em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” (Nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải – Chi nhánh Hà nội).
BÀI LUẬN VĂN ĐƯỢC CHIA LÀM 3 CHƯƠNG:
Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Hàng hải- Hà nội.
80 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Tín dụng Ngân hàng được coi là “đòn bẩy” quan trọng cho nền kinh tế, là nguồn vốn quan trọng, chủ động để phát triển kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của từng Ngân hàng. Cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đựng những rủi ro. Do đặc thù kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa trên tiền của người khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn cao hơn rủi ro doanh nghiệp vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của Ngân hàng và vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro trong kinh doanh dịch vụ Ngân hàng là điều khó tránh khỏi mà chủ yếu là rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thời gian gần đây rủi ro tín dụng đối với khu vực này đang là vấn đề nổi cộm đang thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngành Ngân hàng trong khi tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất to lớn nhưng chưa được phát huy. Hơn nữa rủi ro xảy ra trong Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với rủi ro trong các ngành kinh doanh khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống Ngân hàng, gây ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ hàng loạt Ngân hàng và một loạt hậu quả nghiêm trọng khác về mọi mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Chính phủ bị suy giảm. Ta có thể thấy được phần nào hậu quả của rủi ro Ngân hàng qua vụ đổ vỡ hàng loạt của gần 500 quỹ tín dụng đô thị và hàng nghìn hợp tác xã tín dụng nông thôn nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani.
Với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng đang là một vấn đề làm đau đầu các nhà quản trị Ngân hàng. Sự gia tăng của các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, thất thoát vốn tín dụng do bị lừa đảo, chiếm dụng….đã làm rung động cả một hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần và đẩy không ít các Ngân hàng kể cả Ngân hàng quốc doanh vào trạng thái co cụm không dám cho vay. Nhưng đã cho vay thì phải chấp nhận rủi ro. Trong kinh doanh Ngân hàng cũng vậy, đến các Ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất thì việc tồn tại các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi … vẫn xảy ra nhưng ở mức độ thấp và rất thấp. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là cần chấp nhận rủi ro và tìm ra các biện pháp giảm thiểu nó đến mức thấp nhất có thể, để trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội, dưới sự hướng dẫn của Cô giáo PGS, TS Nguyễn Thị Bất em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” (Nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải – Chi nhánh Hà nội).
Bài luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Hàng hải- Hà nội.
Chương 1
Rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại
đối với khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh
1.1. hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một bộ phận không thể tách khỏi đời sống xã hội, là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở lưu thông hàng hóa và phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài của loài người. Quan niệm Ngân hàng thay đổi theo thời gian, theo sự biến đổi của nền kinh tế. Song khái quát chung được ghi trong pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước (Điều I, khoản 1): “Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Ngân hàng thương mại cũng giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng Ngân hàng là tiền tệ. Trong đó hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu. Hơn nữa, tổ chức này lại có vai trò to lớn trong việc tạo ra vốn và điều hoà vốn trong nền kinh tế. Khoản 8 và 10, điều 20, luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng được định nghĩa như sau: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để thoả thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu cho thuê tài sản, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác…”.
Hoạt động Ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng ngân hàng đều là một công cụ quan trọng không thể thiếu của nền sản xuất kinh tế thị trường.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại thể hiện mình thông qua các hoạt động sau:
Huy động tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân.
Đây là một trong những nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên chủ yếu của ngân hàng thương mại mà chính qua nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng tạo tiền. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gưỉ của các doanh nghiệp và cá nhân thông qua các hình thức: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, các trái khoán ngân hàng, hay vay vốn của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại phải thu hút vốn trên cơ sở vốn tự có. Vốn tự có được coi là “cái đệm” chống đỡ các rủi ro gặp phải trong kinh doanh ngân hàng. Tỷ lệ vốn huy động và vốn tự có được quy định cụ thể trong luật ngân hàng mỗi nước. ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại không được phép huy động vốn quá 20 lần vốn tự có và quỹ dự trữ.
1.1.2.2. Thực hiện nghiệp vụ đầu tư tín dụng.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại dùng chủ yếu vốn huy động để cho vay từ đó thu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch chi phí đầu vào và đầu ra. Thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng xã hội của mình thông qua việc mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tín dụng có ý nghĩa lớn đối với toàn bộ nền kinh tế thông qua hoạt động tài trợ cho các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế như: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng…Đồng thời đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do vậy các ngân hàng thương mại luôn chú trọng tới việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cho vay để đảm bảo thu về cả gốc lẫn lãi đúng hạn.
1.1.2.3. Nghiệp vụ thanh toán.
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ thanh toán thông qua việc phát hành các công cụ thanh toán (thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, séc) cung cấp các dịch vụ thanh toán cho công chúng, thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ. Để thực hiện các chức năng trung gian thanh toán của mình, các ngân hàng thương mại đều tham gia vào các hệ thống thanh toán như: hệ thống thanh toán bù trừ, hệ thống thanh toán liên hàng hay thông qua các ngân hàng đại lý.
1.1.2.4. Tham gia hoạt động trên thị trường hối đoái.
Các ngân hàng thương mại tham gia mua bán ngoại tệ, kim loại quý… trên thị trường hối đoái. Trong sự phát triển của mình các ngân hàng thương mại đã hình thành và phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và kim loại quý. Nó xuất phát từ sự phát triển sản xuất kinh doanh theo xu hướng hội nhập và phân công lao động quốc tế. Đồng thời, nó cũng là động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của hoạt động này. Về phía ngân hàng, việc mua bán ngoại tệ và kim loại quý…đã đem lại lợi nhuận trên cơ sở mua vào với giá thấp và bán ra với giá cao. Kinh doanh trên cơ sở chênh lệch tỷ giá thông qua các giao dịch giao ngày, giao dịch kỳ hạn, arbit…cũng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.1.2.5. Tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là người cung cấp (phát hành), người mua bán, người bảo lãnh phát hành, người môi giới, người đầu tư….Trong đó, chức năng môi giới của ngân hàng trên thị trường chứng khoán được mọi người biết tới thông qua các hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng…
1.1.2.6. Cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng.
Các ngân hàng thương mại hiện đại nhận thấy lợi nhuận đem lại từ việc cung cấp các dịch vụ cho khách hàng chiếm tỷ trọng ngày một lớn trong tổng lợi nhuận. Do vậy đa dạng hóa các dịch vụ, nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ luôn là mối quan tâm của ngân hàng. Ngày nay, các dịch vụ của ngân hàng thương mại rất đa dạng, phong phú từ việc bảo lãnh, đến cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý tài sản cho khách hàng lưu giữ, bảo quản các chứng từ, tài sản có giá, cho thuê két, thực hiện nghiệp vụ đại lý uỷ thác, quản lý danh mục đầu tư…
1.2.Vài nét về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Mục đích chung nhất của mọi hoạt động của con người là vươn tới thành công theo những mục tiêu đã định. Trong quá trình thực hiện hoạt động ấy luôn có những khó khăn nhiều, dự định ban đầu có thể không đạt được như ý muốn. Tất cả những cái đó có thể gọi là rủi ro.
Tuỳ theo điều kiện khác nhau mà có cách nhìn về rủi ro không giống nhau:
- Theo Franknight(1921) thì :”Rủi ro là sự bất chắc có thể đo lường được”
- Theo Marilic Mr Carty(1986) cho rằng “Rủi ro là một tình trạng trong đó biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”.
- Theo H.Kinh nhà kinh tế học Mỹ: “Rủi ro là các kết quả bất lợi có thể đo lường được”. Như vậy theo ông những gì chưa biết thì không phải là rủi ro mà là bất chắc.
- Còn theo Allan Willet thì “ Rủi ro là bất chắc có liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi”.
- Theo lý thuyết chứng khoán: “ Rủi ro là sự chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận bất lợi cho nhà đầu tư”.
Nhìn chung mỗi định nghĩa đều khẳng định được rằng Rủi ro là khả năng xuất hiện những biến cố không mong đợi gây thiệt hại cho một công việc cụ thể.
Trong nền kinh tế thi trường, rủi ro đựơc xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Các chuyên gia về Tài chính- Ngân hàng cho rằng: “ hơn mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng phải đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc”.
Rủi ro tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng do một hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ về tài chính với Ngân hàng. Rủi ro tín dụng được hiểu là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ tài sản có sinh lời của các Ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
Điều đó có nghĩa là một khi còn có hoạt động Ngân hàng thì còn có rủi ro trong hoạt động tín dụng và buộc Ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tới mức thấp nhất thiệt hại do chúng gây ra.
1.2.2. Các loại hình rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng (rủi ro cho vay).
Hoạt động tín dụng là một trong các hoạt động lớn nhất và chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại vì vậy lợi nhuận của Ngân hàng chủ yếu là thu từ lãi do việc cấp tín dụng. Đương nhiên ở khâu này chứa đựng nhiều rủi ro nhất, nói cách khác việc cho vay bao giờ cũng thực hiện các đảm bảo để giảm thiểu các rủi ro có liên quan đến tiền vay như: Phân tích khách hàng, quy định hạn mức cho vay, yêu cầu thế chấp, thỏa thuận về vay, trả nợ. Nhưng dẫu sao Ngân hàng cũng không thể đánh gía được hết các bất ngờ hoặc chính xác được.
Rủi ro cho vay biểu hiện ra bên ngoài là việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, vốn bị ứ đọng khó có khả năng thu hồi hoặc xảy ra nợ quá hạn ngày càng tăng, các khoản lãi chưa thu ngày càng lớn dẫn đến Ngân hàng không thu hồi được vốn để hoàn trả vốn cho người gửi tiền, thậm chí Ngân hàng bị thiếu và không có khả năng thanh toán.
Nói tóm lại, rủi ro trong khâu cho vay liên quan đến ba vấn đề chính: ý thức về nghĩa vụ trả nợ của khách hàng, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai, khả năng chịu nợ theo thời hạn thoả thuận với mức vay đã thực hiện.
1.2.2.2. Rủi ro mất khả năng thanh toán.
Trường hợp này xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán của mình và của khách hàng. Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này. Thứ nhất, do ngân hàng huy động vốn ngắn hạn song lại cho vay dài hạn bởi vậy nó không đủ số vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Thứ hai, do khách hàng đột ngột mất lòng tin ở ngân hàng, cùng lúc ồ ạt đến rút tiền làm cho ngân hàng không có đủ tiền thanh toán cho khách hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng đang thiếu vốn hoạt động. Trong trường hợp này các Ngân hàng bị rủi ro thường bị mất tiền lãi và bỏ ra chi phí cho các việc nhằm cứu vãn tình hình như:
ã Bán chứng khoán.
ã Vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
ã Vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
ã Thu hồi hay bán lại các món vay chưa đến hạn.
Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém thì ngân hàng càng khó huy động được nguồn vốn dồi dào, phạm vi hoạt động ngày càng thu hẹp. Từ đó, Ngân hàng sẽ lâm vào vòng xoáy đã thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn và sẽ vỡ nợ nếu không được sự trợ giúp kịp thời của Ngân hàng trung ương.
1.2.2.3. Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có biến động chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay của Ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay dẫn đến giảm thu nhập của Ngân hàng. Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với những biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2.4. Rủi ro tỷ giá.
Kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của Ngân hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu thuật lợi. Rủi ro tỷ giá xuất hiện do sự thay đổi tỷ giá giữa các đồng tiền. Rủi ro này xuất hiện hầu hết trong các hoạt động kinh doanh Ngân hàng, đặc biệt trong khâu ”đi vay” và “cho vay”. Khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra ”lãi” về hối đoái, tỷ giá giảm sẽ tạo ra ”lỗ” về hối đoái. Những điều này sẽ tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến Ngân hàng cũng như đối với khách hàng của Ngân hàng.
1.2.2.5. Rủi ro bị đọng vốn.
Rủi ro này xuất hiện trong trường hợp nguồn vốn của Ngân hàng bị ứ đọng, không cho vay được hay không thể chuyển sang các tài sản có sinh lời khác. Điều này gây rủi ro lớn cho Ngân hàng. Bởi vì NHTM là doanh nghiệp kiếm lợi nhuận bằng cách”đi vay để cho vay” nguồn vốn tự có rất ít ỏi, chỉ là một cái đệm chống đỡ sự sụt giảm của tài sản có mà thôi. Và nguồn vốn huy động chủ yếu của ngân hàng chính là vốn huy động. Nếu vì một lý do nào đó, ngân hàng không cho vay được nguồn vốn này hoặc không sử dụng hết nghĩa là tồn tại tiền dự trữ qúa mức không sinh lãi trong khi đến hạn ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động và các chi phí nghiệp vụ khác có liên quan sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Tình trạng này kéo dài và đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng vào hoàn cảnh khó khăn thua lỗ hoặc thậm chí phá sản.
1.2.2.6. Các rủi ro thuần tuý.
Đó là những rủi ro của tự nhiên mang lại như thiên tai, hoả hoạn, động đất hoặc các rủi ro như lừa đảo, trộm cắp…làm thiệt hại hay phá huỷ tài sản của Ngân hàng.
1.3. Rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Với khả năng điều hòa vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại từ lâu đã được xem có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung và sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Nhưng trước khi xem xét rủi ro tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chúng ta cần phải biết đặc điểm khu vực kinh tế này trong nền kinh tế thị trường.
1.3.1 Đặc điểm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Kinh tế ngoài quốc doanh(KT NQD) là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại và sự phát triển khu vực kinh tế này có cơ sở về mặt kinh tế và thể chế chính trị. Xét về mặt kinh tế xã hội, Marx đã từng khái quát rằng một kết cấu xã hội không bị loại trừ khi bản thân nó vẫn còn sức sống và một cấu trúc Xã hội mới chưa thể ra đời khi những điều kiện này nảy sinh nó chưa xuất hiện.
Trên ý nghĩa đó, KT NQD có cơ sở kinh tế xã hội ở nước ta. Về mặt thể chế chính trị từ Đại hội Đảng lần VI(1986) đến nay, Đảng và nhà nước ta đã kiên trì và nhất quán thực hiện chiến lược nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng Xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, sở hữu tư nhân được chấp nhận, KT NQD được tồn tại và phát triển cùng kinh tế Nhà nước. KTNQD là khu vực kinh tế được hình thành trong quan hệ sở hữu tư nhân, không có sự góp vốn của Nhà nước. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp KT NQD bao gồm: hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Nghiên cứu hoạt động của KT NQD trong mối quan hệ với khu vực quốc doanh, ta sẽ thấy rõ được vai trò tất yếu của KT NQD trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Thành phần KT NQD có đặc điểm nổi trội sau:
1.3.1.1 Đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và tập trung chủ yếu ở các vùng đô thị lớn.
Qua số liệu thống kê cho thấy phạm vi hoạt động của khu vực KT NQD có mặt hầu hết các ngành Kinh tế quốc dân(26000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính đến đầu năm 1998), công nghiệp chế biến, nông –lâm nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ.
Tuy nhiên trong vòng 10 năm trở lại đây, mức đầu tư nhiều nhất vẫn là thương mại và dịch vụ, ngành chiếm tỷ trọng nhiều cả về số lượng lẫn giá trị tổng sản phẩm quốc nội.
Sự phát triển của thương mại –dịch vụ ngoài việc xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế còn là tất yếu của thời đại và xu thế hội nhập nên quy mô hoạt động của nó đã vượt ra ngoài biên giới của một nước. Hơn nữa, đặc điểm của ngành thương mại và dịch vụ là vốn đầu tư thấp hơn các ngành khác, thời gian thu hồi vẫn nhanh, tỷ suất doanh lợi hấp dẫn, có thị trường, có kinh nghiệm kinh doanh.
Trong lĩnh vực sản xuất khu vực KT NQD chiếm tỷ trọng thấp năng lực sản xuất nhỏ nên dễ bị tác động bởi sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường và chủ đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến.
1.3.1.2 Năng động nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Người quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường xuyên đồng thời là chủ sở hữu nên các quyết định trong kinh doanh thường có hiệu lực ngay. Sự gắn bó sát sao giữa quyền lợi của doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do có khả năng tự quyết, họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi đồng thời họ có thể chuyển hướng kinh doanh khi có những bất lợi. Vì vậy các DN NQD có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không ngừng của Khoa học-Kĩ thuật. Đây là một lợi thế của các DN NQD so với các doanh nghiệp quốc doanh(DNQD).
1.3.1.3 Có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ.
Các DN NQD hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Nếu thường thích hợp với cơ cấu tổ chức đơn giản, số lượng nhân viên ít và các nhân viên thường phải đảm bảo nhận nhiều công việc theo kiểu đa năng. Phần lớn chủ doanh nghiệp vừa phải đảm nhiệm vai trò điều hành, chỉ huy nhân viên vừa phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo kinh doanh.
DN NQD thường sử dụng lực lượng lao động thời vụ, góp phần làm giảm chi phí, tạo lợi thế cạnh tranh về giá. Cũng vì vậy mà họ đòi hỏi nhân viên của mình làm việc nghiêm túc với cường độ cao, giảm thiểu lãng phí nguồn nhân lực vẫn thường gặp ở DNQD. Doanh nghiệp có thể tận dụng lao động thay thế cho vốn từ đó có thể đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Rõ ràng là phát triển KT NQD là phù hợp với điều kiện và khả năng về vốn, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý của các nhà đầu tư trong nước. Đồng thời nó có khả năng linh hoạt và dễ điều chỉnh hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Do vậy, khối lượng vốn để hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ không lớn hiệu quả sử dụng vốn cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên khu vực KT NQD cũng có không ít đặc điểm mang tính hạn chế, cần phải chú ý tới khi xây dựng mối quan hệ tín dụng với họ.
1.3.1.4 Dễ dàng tạo lập sự phát triển cân đối giữa các vùng của đất nước.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với sự tạo lập dễ dàng có thể phát triển rộng rãi ở mọi vùng của đất nước tạo ra các sản phẩm phong phú và đa dạng và phát triển cân đối giữa các vùng của đất nước. Khối lượng kinh doanh có thể đáp ứng tốt nhu cầu của địa phương, từng vùng. Bên cạnh đó khu vực KT NQD có xu hướng tập trung phát triển ở các đô thị lớn như Hà Nội, Hải phòng, Thành phố Hồ Chí Minh…chưa phát triển ở các tỉnh miền núi, trung du … dù rằng ở những nơi này có nhiều nguồn nguyên liệu để phát triển.
1.3.1.5 Hạn chế về vốn.
Hiện nay các DN NQD đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển sản xuất và mở rộng kinh doanh là tình trạng thiếu vốn. Trong khi đó họ thường chiếm một tỷ trọng lớn trong số những người xin vay vốn Ngân hàng. Do vậy các Ngân hàng thương mại phải có sự chú ý đặc biệt tới tình hình tài chính trong cho vay đối với khu vực này.
Mặc dù thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm nhưng chưa thực sự trở thành thị trường vốn dài hạn và ổn định cho các doanh nghiệp thuộc khu vực. Đồng thời hạn chế về nguồn vốn là nguyên nhân cơ bản dẫn tới những khó khăn khác cho các doanh nghiệp như về công nghệ lạc hậu, trình độ công nhân thấp, khả năng cạnh tranh.
1.3.1.6. Tâm lý đầu tư, ý chí kinh doanh của các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thấp.
Đa phần chủ doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần KT NQD chưa được đào tạo một cách bài bản, trình độ đội ngũ quản lý các kỹ sư bậc cao, trình độ người lao động thấp, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, khả năng thâm nhập thị trường, trình độ trang bị sản xuất thấp. Hiện nay các nhà đầu tư chưa mạnh dạn đầu tư. Vì vậy họ đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực nhằm tổ chức, quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3.1.7. Một số Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa xác định được rõ hướng sản xuất kinh doanh.
Không ít doanh nghiệp thụ động do thiếu trình độ mà không xây dựng được kinh doanh dài hạn, không xác định được rõ hướng sản xuất kinh doanh nên thường đăng ký kinh doanh nhiều chức năng để dự phòng để thay đổi ngành nghề kinh doanh dễ dàng. Còn có tình trạng kinh doanh sai chức năng, không có địa chỉ cố định, thay đổi sáng lập viên, tạm ngừng kinh doanh, giải thể nhưng không báo cáo với cơ quan có thẩm quyền.
1.3.1.8 Việc thực hiện pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước chưa nghiêm.
Các DN NQD gặp khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch tài chính, phản ánh sản xuất kinh doanh khả thi trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa thành. Do việc lập kế hoạch tài chính xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khả năng quản lý kinh doanh, khả năng dự đoán những biến động của thị trường….
Hiện nay các sổ sách các doanh nghiệp lập ra nhằm để đối phó và đều chưa được kiểm toán. Do vậy việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là thiếu chính xác. Ngân hàng thực sự khó khăn trong việc đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp để đưa ra quyết định cho vay hay không.
Tính không ổn định của các quy định luôn thay đổi và không được báo trước đã tạo tâm lý thiếu yên tâm đầu tư, còn nhiều quy định mang tính phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước và DN NQD rõ nhất là lĩnh vực đất đai, tín dụng… Ngoài ra, DN NQD gặp khó khăn về vấn đề đất đai trong đó có thủ tục xin cấp quyền sử dụng đất như nhau. Trong trường hợp thuê đất doanh nghiệp phải trả tiền thuê đất cao gấp nhiều lần so với doanh nghiệp nhà nước. Sự không bình đẳng này dẫn tới những vấn đề cấp đất, cấp quyền sử dụng đất, gây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100706.doc