Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang nến kinh tế thị trường , nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đường hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là sự đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Có thể nói hệ thống Ngân hàng Thương mại đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên hoạt động trên thị trường tiền tệ . Đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro khó lường. Các rủi ro này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau đã gây cho ngân hàng những tổn thất làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong những rủi ro mà ngân hàng thường hay gặp phải là những khoản nợ khó đòi hay còn gọi là những khoản nợ xấu.
Mặc dù các Ngân hàng Thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục những khoản nợ xấu này, nhưng dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan mà các biện pháp này chưa đạt được những hiệu quả như ý muốn. Xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản nợ này. Tuy nhiên, việc xử lý các tài sản đảm bảo hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn bất cập. Điều này gây nhiều khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại .
Để các Ngân hàng Thương mại phát triển theo hướng ổn định, an toàn và giảm bớt những khó khăn đối với các khoản nợ không thu hồi được thì việc lựa chọn giải pháp xử lý tài sản đảm bảo cho vay là hết sức quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ, nhân viên Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , đặc biệt là cán bộ Phòng Kinh doanh tín dụng , em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài :
“ Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ”
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương II: THỰC TRẠNG XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mỡ đầu: 4
Lời cảm ơn: 5
Chương I: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại: 7
I. Chức năng và vai trò của hệ thống NHTM trong nền kinh tế: 7 1.Chức năng trung gian tài chính: 7 2.Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: 8
3.Chức năng tạo ra tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp: 9
II. Khái quat về tín dụng NHTM và hình thức đảm bảo tiền vay: 9
1. Khái quát về tín dụng của NHTM: 10
1.1 Khái niệm: 10 1.2 Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng: 10 1.3 Phân loại tín dụng chung: 13
1.4 Rủi ro tín dụng: 14
2. Hình thức đảm bảo tiền vay: 15
2.1 Tính tất yếu khách quan phải đảm bảo tiền vay: 15
2.2 Khái niệm đảm bảo tiền vay: 16
2.3 Phân loại đảm bảo tiền vay: 17
III. Vấn đề cho vay có đảm bảo bằng tài sản trong các NHTMVN: 17
1.Tài sản đảm bảo và vai trò của tài sản đảm bảo: 17
2. Các hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản: 18
2.1 Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: 18
2.2 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: 19
3. Các điều kiện đối với tài sản dùng đảm bảo tiến vay: 19
4. Quy trình cho vay có đảm bảo bằng tài sản: 20
4.1 Định giá tài sản đảm bảo: 20
4.2 Xác định mức cho vay dựa vào tài sản đảm bảo: 21
4.3 Ký kết hợp đồng và quản lý tài sản đảm bảo: 21
IV. Vấn đề xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ trong hoạt động kinh doanh của NHTM: 22
1. Khái niệm nợ khó đòi: 22
2. Thời điểm phát sinh việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay: 22
3.Nguyên tắc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay: 23
4. Phương thức xử lý tài sản đảm bảo tiền vay: 24
5. Khai thác, sử dụng tài sản đảm bảo trong thời gian chưa xử lý: 25
6. Định giá tài sản đảm bảo khi xử lý: 26
7. Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản đảm bảo: 26
8. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ: 27
V. ý nghĩa của việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ trong hoạt động tín dụng của NHTM: 30
1. Đối với Ngân hàng: 30
2. Đối với khách hàng: 31
VI. Kinh nghiệm xử lý các khoản nợ xấu thông qua xử lý tài sản đảm bảo và trich lập dự phòng rủi ro tại Thái lan và Hàn quốc: 32
Chương II: Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ tại NHCT-HK: 36
I. Khái quát về NHCT-HK: 36
1. Lịch sử hình thành và phát triển: 36
2.Cơ cấu tổ chức bộ máy: 37
3. Các hoạt động nghiệp vụ của NHCT-HK: 39
II. Khái quát đặc biệt kinh tế – xã hội trên địa bàn tác động đến NHCT-HK: 41
III. tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT-HK: 42
1. Nghiệp vụ huy động vốn: 42
2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: 44
3. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại: 46
IV. Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ khó đòi tại NHCT-HK: 47
1. Sự tất yếu phải xử lý tài sản đảm bảo nợ khó đòi: 47
2. Thực trạng vấn đề xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại NHCT-HK: 49
2.1. Những qui định của NHCT-HK về việc xử lý tài sản đảm bảo: 49
2.2. Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay: 53
2.2.1. Vấn đề đảm bảo tiền vay tại NHCT-HK: 53
2.2.2. Vấn đề xử lý tài sản thế chấp tại NHCT-HK: 55
2.3. Những vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ tại NHCT-HK: 56
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ tại NHCT-HK: 60
I. Phương hướng cho vay của NHCT-HK: 60
II. Các giải pháp xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại NHCT-HK: 61
III. Các kiến nghị: 64
1. Kiến nghị với Chính phủ: 64
2. Kiến nghị với NHNN: 67
Kết luận: 69
Danh mục tài liệu tham khảo: 70
Lời mỡ đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang nến kinh tế thị trường , nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đường hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là sự đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Có thể nói hệ thống Ngân hàng Thương mại đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên hoạt động trên thị trường tiền tệ . Đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro khó lường. Các rủi ro này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau đã gây cho ngân hàng những tổn thất làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong những rủi ro mà ngân hàng thường hay gặp phải là những khoản nợ khó đòi hay còn gọi là những khoản nợ xấu.
Mặc dù các Ngân hàng Thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục những khoản nợ xấu này, nhưng dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan mà các biện pháp này chưa đạt được những hiệu quả như ý muốn. Xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản nợ này. Tuy nhiên, việc xử lý các tài sản đảm bảo hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn bất cập. Điều này gây nhiều khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại .
Để các Ngân hàng Thương mại phát triển theo hướng ổn định, an toàn và giảm bớt những khó khăn đối với các khoản nợ không thu hồi được thì việc lựa chọn giải pháp xử lý tài sản đảm bảo cho vay là hết sức quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ, nhân viên Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , đặc biệt là cán bộ Phòng Kinh doanh tín dụng , em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài :
“ Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ”
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Chương I:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
I. chức năng và vai trò của hệ thống NHtm trong nền kinh tế :
1. Chức năng trung gian tài chính :
Đây là chức năng đặc trưngvà cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển .Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người muốn dùng nó vì mục đích sinh lợi .
Thực hiện chức năng này , một mặt , Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rổi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác , trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất , kinh doanh , tiêu dùng .. của các chủ kinh tế , góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Như vậy , Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay , hay nói cách khác , nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại là đi vay để cho vay.
Để mở rộng sản xuất , đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra . Các doanh nghiệp không chỉ trông chờ vào vốn tự có , mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã hội . Ngân hàng Thương mại với tư cách là nơi tập trung nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội , sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển . Như vậy , tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh chống cho đầu tư mỡ rộng sản xuất , vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế .
Chức năng trung gian tài chính của các Ngân hàng Thương mại được hình thành rất sớm , ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại . Ngày nay , thông qua chức năng trung gian tín dụng , Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình , làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên , vốn đầu tư được mỡ rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế , cải thiện đời sống của nhân dân.
2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán :
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp , tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả theo lệnh của chủ tài khoản .Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng , họ sẽ được đảm bảo an toàn trong cất giữ và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng , tiện lợi , nhất là đối với những khoản thanh toán có giá trị lớn , mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém , khó khăn và không an toàn . Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không qua ngân hàng , thì sẽ có những bất tiện và tốn kém , như : những chi phí cho lưu thông tiền mặtvà những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận. Khi ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá , dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện , việc thanh toán trở nên thuận lợi , tiết kiệm được nhiềuchi phí , mọi quan hệ thanh toán được thực hiệnbằng cách các chủ thể kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiệnviệc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụngvà độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân , thẻ thanh toán ..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độluân chuyển vốn , thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức đa dạng, không chỉ là trung tâm thanh toán truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán . Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. 3.Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp : Quá trình tạo tiền của Ngân hàng Thương mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng , trong mối liên hệ chặt chẻ với hệ thống Ngân hàng Trung ương mổi nước .Tiền “ bút tệ “ do các Ngân hàng Thương mại tạo ra bằng cách nào? Để hiểu vấn đề này chúng ta giả định rằng tất cả các Ngân hàng Thương mại đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định , các tờ séc không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp được bỏ qua , thì quá trình tạo tiền “ bút tệ “ như sau :
Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng . Một ngân hàng này cho vay xong là hết vốn , thì số vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền gửi của ngân hàng khác . Bây giờ chúng ta quan sát quá trình tạo ra tiền của ngân hàng khi nó bắt đầu cho vay . Người đến vay tiền của ngân hàng đem về sẽ chi tiêu theo các mục đích đã định của ông ta . Không ai vay tiền của ngân hàng để đem về nhà cất mà chịu lãi . Số tiền ông ta chit tiêu qua tay một người thứ hai . Người này có thể quyết định rằng nên gửi số tiền vừa nhận được vào ngân hàng để có lãi mỗi ngày, hơn là giữ nó ở nhà không tạo được một lợi ích nào khác ..
Như thế , đến đây ngân hàng đã tạo ra hai đợt tiền ngân hàng : số tiền người gửi thứ nhất cầm trên tay và số tiền do người thứ hai cầm , Tổng cộng hai số tiền ngân hàng tạo ra chỉ từ số tiền người gửi đầu tiên , và nghiệp vụ cho vay của nó
II. Khái quát về tín dụng của ngân hàng thương mại và hình thức đảm bảo tiền vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận . Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi , chi phí dự trữ , chi phí kinh doanhvà quản lý , chi phí vốn trôi nổi , chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư.
1.Khái quát về tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
1.1. khái niệm:
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế hết sức phức tạp, như : bán chịu hàng hoá , cho vay , chiết khấu ,bão lãnh , ký thác , phát hành giấy bạc
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói , chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc
- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định
1.2.Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng :
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý . Các hành vi ngân hàng có cùng một lôgích kinh tế : hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về pháp lý , mà nhiều loại ( cho vay, bão lãnh, bảo chứng , ..)
Xét theo tính chất pháp lý, các nghiệp vụ ngân hàng về cơ bản có thể chia thành ba loại :
Cho vay ứng trước
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Cho vay qua chữ ký ( cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký )
1.2.1. Cho vay tiền:
Cho vay tiền là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau một thời gian nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơ giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lã cho vay
Loại cho vay dựa trên ba nguyên tắc cơ bản :
1) Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn huy động của khách hàng .Đó là một bộ phận tài sản của các sở chủ mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu . Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng , thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả nănghoàn trả của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này , mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn trả nợ rõ ràng . Khi đến kỳ hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng , nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của đi vay để thu nợ . Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn . Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ , ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo . Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản .
2) Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích :
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ phát triển . Đối với các đơn vị kinh tế , tín dụng phải đáp ứng mục đích cụ thể trong quá trình hoạt đốngản xuất kinh doanh để thúc đẩy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình.
Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay , bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định . Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này , ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn , nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn .
3) Vốn vay phải có tài sản tương ứng đảm bảo :
Trong quá trình cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế , không kể thực hiện dưới hình thức nào , đều làm tăng sức mua của xã hội , làm tăng khối lượng tiền tệ của nền kinh tế , làm tăng lượng hàng hoá trên thị trường . Ngoài ra , tính chất vận động của vốn tín dụng là gắn liền với sự vận động vật tư hàng hoá , gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị . Do đó cần thực hiện nguyên tắc đảm bảo bằng vật tư hàng hoá tương đương cho những khoản tín dụng đang thực hiện
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều hình thức:
Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay
Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay
Tài sản đảm bảo còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm môt nguồn vốn khác để thu nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản .
1.2.2.Cho vay dựa trên việc chuyển nhương trái quyền:
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán các công cụ tài chính ( hối phiếu , lệnh phiếu, ký hoá phiếu,..), tạo ra nghiệp vụ chiết khấu thươngphiếu của ngân hàng , tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu .
Trong loại tín dụng này , về phương diện pháp lý , ngân hàng không phải cho vay mà là được mua một trái quyền . ở đây , ngân hàng ứng trước trị giá của một thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu trái quyền của thương phiếu đó .
Trong hình thức tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền này , khách hàng là chủ một trái quyền có kỳ hạn, nhưng muốn có vốn ngay lập tức, nên họ phải yêu cầu ngân hàng cấp cho ngay số tiền đó , trừ đi phần trả lãi. Đổi lại , họ chuyển nhượng trái quyền cho ngân hàng và khi đến hạn ngân hàng sẽ đòi tiền người thụ trái ( người phải trả ). Như vậy, tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền cho ngân hàng chủ yếu là phương thức chiết khấu thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho cay nghề nghiệp
1.2.3.Tín dụng qua chữ ký ( cho vay qua cam kết bằng chữ ký ):
Trong hình thức này , ngân hàng không ứng tiền ra , mà chỉ cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được. Chính vì lý do bão lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà ngườita gọi hành vi cam kết bão lãnh của ngân hàng là tín dụng qua chữ ký.
Các ngân hàng lớn dựa vào uy tín của mình cấp chứng thư cam kết bảo lãnh cho khách hàng thực hiện các quan hệ tài chính trong nước và quốc tế giúp cho khách hàng của mình có thêm điều kiện để được các đối tác tín nhiệm về mặt tài chính trong quan hệ giao dịch.
Tín dụng này có nhiều dạng :
1) Bảo lãnh ngân hàng :
Đây là hình thức rất quan trọng trong thức tiễn , bởi vì nó là điều kiện rất hay phải có để một số người thụ trái được trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc.
Bảo lãnh của ngân hàng có thể thực hiện dưới dạng bảo chứng thương phiếu : “Bảo đảm trả ngay khi có yêu cầu đầu tiên”, do các ngân hàng cấp. Loại bảo lãnh này trái ngược với loại trên ở chổ , người bảo lãnh cam kết với chủ nợ sẽ trả tiền ngay khi có yêu cầu đầu tiên , mà không được phản đối những ngoại lệ mà người thụ trái có thể phản đối .
2) Tín dụng chấp nhận:
Trong loại tín dụng này , ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính ngân hàng , và ngay trước khi hối phiếu đến hạn , khách hàng phải nộp vào ngân hàng số tiền cần thiết để thanh toán . Như vậy, ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc . Việc chấp nhận này cho phép chủ nợ có được một chứng từ bảo đảm được thanh toán bởi khả năng thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
1.3. Phân loại tín dụng chung:
1.3.1. Tín dụng ngắn hạn , trung hạn và dài hạn:
Chúng khác nhau ở thời hạn ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng : tối đa là 6 tháng về ngắn hạn , tới 7 năm đối với trung hạn và trên 7 năm là dài hạn.
1.3.2. Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng :
- Một số loại tín dụng , thường rất ngắn hạn , là kết quả của sự khoan dung của ngân hàng ( ví dụ: hình thức hổ trợ quỹ ). Trong trường hợp này ngân hàng không hề cam kết dứt khoát với khách hàng và do đó có thể tự chấm dứt cho vay , trừ trường hợp quá lạm quyền .
- Nhưng tín dụng thường phát sinh từ một cam kết dứt khoát của ngân hàng , hoặc là cấp một tín dụng cụ thể , hoặc là mở một hạn ngạch tín dụng cho khách hàng của họ .
Khi hạn ngạch tín dụng không có thời hạn xác định, ngân hàng chỉ được chấm dứt hoặc giảm hạn ngạch sau khi đã thông báo bằng văn bản khi đến hạn báo trước thoả thuận lúc mở tín dụng.
Nhưng ngân hàng bao giờ cũng có thể chấm dứt việc mở tín dụng mà không cần báo trước khi:
+ Khách hàng có thái độ rất đáng trách
+ Tình hình của khách hàng bị tổn hại không thể cứu vãn được.
1.3.3. Tín dụng có thể huy động và tín dụng không thể huy động được ( có thể bán lại và không thể bán lại ).
- Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể nhượng lại nhằm thu hồi lại được tiền trước kỳ hạn đã định. Các khoản tín dụng này chủ yếu dựa trên kỹ thuật các chứng phiếu có thể chuyển nhượng và cho phép ngân hàng đi vay lại được ( tự tái cấp vốn ).
- Tín dụng không huy động là tín dụng mà ngân hàng cấp ra không thể đem chuyển nhượng để vay lại vốn .
1.4.Rủi ro tín dụng:
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng, như: các hoạt động bão lãnh, cam kết, chấp nhận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, những chứng khoán có giá, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ v.v.. . Ngày nay, dù có nhiều hính thức kinh doanh mới trong hoạt ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, song hoạt động tín dụng vẫn là hoạt kinh doanh chủ yếu của ngân hàng . Vì thế ở các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm . Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định các mức tín dụng, vật thế chấp, và hạn ché tín dụng. Dẫu sao, không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những qui định hạn chế trong hợp đồng tín dụng; sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại bỏ được chúng. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng những tổn thất về tài chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là “ngòi nổ”tự mình nó sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp nhưng khi có những chất kích thích sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẻ diển ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảnh kinh tê- xã hội.
Rủi ro tín dụng thường có hai loại: rủi ro sai hẹn là rủi ro xảy ra khi khách hàng không trả nợ đúng hạn và rủi ro mất vốn là rủi ro xảy ra khi khách hàng không trả được tiền vay. Và cho dù bất cứ loại rủi ro nào thì các ngân hàng cũng luôn tìm cách để hạn chế các rủi ro xảy ra và một khi nó đã xảy ra thì có thể xử lý được nó. Một trong những biện pháp chính là vấn đề đảm bảo cho vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2. Hình thức đảm bảo tiền vay:
2.1. Tính tất yếu khách quan phải đảm bảo tiền vay :
Rủi ro tín dụng luôn thường trực trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ đổ vỡ của phần lớn các ngân hàng. Các rủi ro này bắt nguồn từ sự không an toàn về sử dụng vốn của ngân hàng. Do đó, an toàn trong quá trình sử dụng vốn là tất yếu khách quan và không thể thiếu được đối với các Ngân hàng Thương mại.
Lý do chính đòi hỏi một khoản vay có đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để người cho vay giảm bớt được những rủi ro mất mát trong trường hợp người đi vay không muốn hoặc không có khả năng trả được nợ vay khi đến hạn. Nhưng đảm bảo không có nghĩa là các khoản vay sẽ được hoàn trả vì Ngân hàng chỉ trở thành chủ nợ ưu tiên trong chi trả và cũng có quyền ưu tiên so với tất cả các chủ nợ khác trong việc thanh lý các tài sản đảm bảo cho vay. ở bất cứ lúc nào, với khách hàng nào thì cho vay có đảm bảo là nguyên tắc hoàn toàn hợp lý và cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng đối phó với những tổn thất khi món nợ quá hạn, khó đòi hoặc khách hàng không có khả năng thanh toán.
Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của ngân hàng nhưng nó là cơ sở quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Sử dụng đảm bảo tiền vay giúp cho các nhà kinh doanh tiền tệ có thể hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro xảy ra. Bởi họ có thể thu hồi vốn khi đến hạn thông qua việc xữ lý các tài sản đảm bảo ngay cả khi người vay gặp khó khăn không có khả năng trả nợ. Mục đích của ngân hàng trong việc đặt ra đảm bảo tiền vay là tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mỡ rộng qui mô tín dụng. Hơn nữa, Ngân hàng có quyền phát mãi các tài sản của người vay được dùng làm đảm bảo đã góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay.
Tuy nhiên, không phải khách hàng nhất thiết phải có đủ tài sản đảm bảo thì Ngân hàng mới cho vay. Một phương án kinh doanh có cơ sở vững chắc để thực hiện có hiệu quả là điều kiện tiên quyết cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay khi phương án kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, có khả thu nợ chứ không chỉ dựa vào việc bán tài sản đảm bảo để thu nợ.
Mặc dù vậy, nếu Ngân hàng không thực hiện các đảm bảo tiền vay thì sẽ không chống đỡ nổi khi có rủi ro xảy ra. Tình trạng mất vốn khi cho vay và bị đọng vốn thường xuyên không có cách khắc phục sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không có hiệu quả, thậm chí còn bị phá sản. Vì lẽ đó, đảm bảo tiền vay được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
2.2. Khái niệm đảm bảo tiền vay:
Đảm bảo tiền vay là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu thứ nhất.
Trong hoạt tín dụng của Ngân hàng, cho vay kinh doanh có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 92.doc