Luận văn Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Thực hiện chính sách mở cửa với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất khẩu được coi là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thực tế đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để hội nhập và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, là điều kiện tiền đề để nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm và làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.

Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành hàng thu hút nhiều lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Tỉnh được ưa chuộng tại nhiều thị trường nước ngoài. Trong những năm qua Tỉnh uỷ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như phát triển làng nghề, phát triển nguồn nhân lực, chính sách tín dụng, hỗ trợ nghiên cứu tìm hiểu thị trường . Với những chính sách và biện pháp đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Thanh Hoá đã không ngừng tăng lên, góp phần đáng kế vào thực hiện xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm qua hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa đạt được kết quả như mong muốn: kim ngạch xuất khẩu còn thấp, hiệu quả chưa cao, sản xuất còn manh mún . chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người của Tỉnh. Vì thế, câu hỏi “Làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tương xứng với tiềm năng của Tỉnh?” là câu hỏi lớn đang đặt ra cho các cấp uỷ Đảng, Chính quyền của tỉnh Thanh Hoá hiện nay.

Trong lĩnh vực xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Có tác giả nghiên cứu toàn diện hoạt động xuất khẩu từ nội dung, hình thức và những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế nói chung. Nhiều đề tài khoa học, luận văn của sinh viên, học viên cao học nghiên cứu về thực trạng kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên còn ít các công trình nghiên cứu tập trung vào đánh giá hoặc đề xuất về chủ trương, biện pháp của chính quyền tỉnh đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Đối với Thanh Hoá, cũng đã có một số đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về tình hình hoạt động Thương mại nói chung hoặc một số mặt hàng xuất khẩu cụ thể của tỉnh. Các đề tài chủ yếu tiếp cận từ phía các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh để đưa ra các đề xuất nhằm phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu.

Đề tài “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2005 và giai đoạn 2006 - 2010” của sở Thương mại Thanh Hoá được Tỉnh Uỷ, UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt và triển khai thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá theo hướng xuất khẩu, từ sản xuất các hàng hoá bán trong nước, các mặt hàng có giá trị xuất khẩu thấp sang các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh.

Nhìn chung, cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung vào xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, cũng như chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về các chủ trơng, biện pháp của Tỉnh Thanh Hoá đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Góp phần vào nghiên cứu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá, tôi chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Quản lý kinh tế

doc170 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chính sách mở cửa với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất khẩu được coi là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thực tế đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để hội nhập và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, là điều kiện tiền đề để nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm và làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành hàng thu hút nhiều lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Tỉnh được ưa chuộng tại nhiều thị trường nước ngoài. Trong những năm qua Tỉnh uỷ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như phát triển làng nghề, phát triển nguồn nhân lực, chính sách tín dụng, hỗ trợ nghiên cứu tìm hiểu thị trường ... Với những chính sách và biện pháp đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Thanh Hoá đã không ngừng tăng lên, góp phần đáng kế vào thực hiện xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm qua hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa đạt được kết quả như mong muốn: kim ngạch xuất khẩu còn thấp, hiệu quả chưa cao, sản xuất còn manh mún ... chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người của Tỉnh. Vì thế, câu hỏi “Làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tương xứng với tiềm năng của Tỉnh?” là câu hỏi lớn đang đặt ra cho các cấp uỷ Đảng, Chính quyền của tỉnh Thanh Hoá hiện nay. Trong lĩnh vực xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Có tác giả nghiên cứu toàn diện hoạt động xuất khẩu từ nội dung, hình thức và những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế nói chung. Nhiều đề tài khoa học, luận văn của sinh viên, học viên cao học nghiên cứu về thực trạng kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên còn ít các công trình nghiên cứu tập trung vào đánh giá hoặc đề xuất về chủ trương, biện pháp của chính quyền tỉnh đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đối với Thanh Hoá, cũng đã có một số đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về tình hình hoạt động Thương mại nói chung hoặc một số mặt hàng xuất khẩu cụ thể của tỉnh. Các đề tài chủ yếu tiếp cận từ phía các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh để đưa ra các đề xuất nhằm phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu. Đề tài “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2005 và giai đoạn 2006 - 2010” của sở Thương mại Thanh Hoá được Tỉnh Uỷ, UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt và triển khai thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá theo hướng xuất khẩu, từ sản xuất các hàng hoá bán trong nước, các mặt hàng có giá trị xuất khẩu thấp sang các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh. Nhìn chung, cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung vào xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, cũng như chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về các chủ trơng, biện pháp của Tỉnh Thanh Hoá đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Góp phần vào nghiên cứu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá, tôi chọn đề tài: “Giải phỏp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ cụng mỹ nghệ trờn địa bàn tỉnh Thanh Hoỏ” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Quản lý kinh tế. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu - Đề xuất giải pháp từ góc độ quản lý Nhà nước để phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. b) Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài cần thực hiện các nội dung sau: - Đưa ra những luận cứ khoa học làm cơ sở và định hướng cho vấn đề nghiên cứu thông qua hệ thống hoá lý luận về xuất khẩu, vai trò và công cụ quản lý của chính quyền địa phương đối với đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. - Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các chủ trương và biện pháp của tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2001 - 2007. - Đề xuất với tỉnh Thanh Hoá những chủ trương, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2010, hướng tới năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài lấy hoạt động tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và các chủ trương, biện pháp của tỉnh Thanh Hoá đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm đối tượng nghiên cứu. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn nghiên cứu các chủ trương, biện pháp của cơ quan Quản lý Nhà nước tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh, các vấn đề khác có liên quan chỉ được đề cập ở mức độ cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ, tổng thể của vấn đề nghiên cứu. Thời gian: thực trạng từ 2001 - 2007, giải pháp đến năm 2010, hướng tới năm 2020 và những năm tiếp sau. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu này là: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp khung logic, nghiên cứu so sánh, phỏng vấn. Các thông tin, số liệu phục vụ cho nghiên cứu này chủ yếu là các số liệu thứ cấp từ các báo cáo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành của tỉnh; các kết quả nghiên cứu của một số đề tài nghiên cứu đã được công bố. Các số liệu sơ cấp được thu thập bổ sung cho nghiên cứu qua phỏng vấn sâu do tác giả luận văn thực hiện trong năm 2007-2008. Đối tượng phỏng vấn là các nhà quản lý ở tỉnh, huyện và một số làng nghề; một số doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, một số doanh nghiệp thương mại. 5. Dự kiến những đóng góp của đề tài Đề tài nghiên cứu có một số đóng góp chính sau đây: - Đề tài góp phần hệ thống hoá và phát triển một bước những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng của tỉnh, vai trò và công cụ của chính quyền tỉnh đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu. - Bằng cách tiếp cận hệ thống, logic đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá; phân tích đánh giá các chủ trương, biện pháp mà tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện trong những năm qua nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. - Đề xuất, kiến nghị với chính quyền Tỉnh một số giải pháp chủ yếu góp phần đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, hướng tới năm 2020. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2007 Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, hướng tới năm 2020. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 1.1. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam có truyền thống hàng trăm hàng ngàn năm, gắn liền với tên những làng nghề phố nghề, được biểu hiện qua những sản phẩm độc đáo - tinh xảo - hoàn mỹ. Từ thế kỷ XI dưới thời Lý việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã được thực hiện. Khi đó các sản phẩm chỉ bao gồm: gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy đó, tơ lụa, đồ bạc, sừng, ngà... Qua 11 thế kỷ các phường thợ, làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước thăng trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc, dệt quai thao) nhưng bên cạnh đó cũng có một số làng nghề mới xuất hiện và phát triển. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như đồ gốm sứ, sơn mài, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa, đồ bạc, ngà, sừng... nổi tiếng trên thế giới nhờ những nét độc đáo mang đậm sắc thái văn hoá dân tộc, những đường nét hoa văn tinh tế qua bàn tay khéo léo, tinh xảo của các nghệ nhân. Gắn liền với những sản phẩm đó là các làng nghề truyền thống đã tồn tại và phát triển từ ngàn đời nay và đã trở thành một trong những di sản văn hoá quý báu của dân tộc Việt Nam. Ngày nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, trong đó có nhiều sản phẩm của các làng nghề truyền thống, đã có mặt và được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Vai trò, đặc điểm của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Xuất khẩu và nhập khẩu là 2 lĩnh vực hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển trong một tổng thể thống nhất biện chứng. Do mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu rất chặt chẽ với nhau nên mỗi quốc gia, mỗi địa phương thường biểu thị mối quan hệ đó thông qua cán cân thương mại tức là bảng cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia và địa phương đó. Để phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong điều kiện tiến bộ khoa học công nghệ, mở rộng phạm vi phân công lao động xã hội, quốc tế hoá đời sống kinh tế thì phát triển xuất khẩu thường được coi là lĩnh vực quan trọng nhất để tận dụng tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động đông đảo tạo ra việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống nhân dân. Bởi vậy xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp, trở thành đòn treo quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Vai trò to lớn của xuất khẩu hàng hoá thể hiện ở các nội dung: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nhập khẩu và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá. Xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nhập khẩu và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá của địa phương, doanh nghiệp. Công nghiệp hoá tạo ra lợi ích giúp các ngành công nghiệp phát triển, sản xuất phát triển, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở các địa phương hiện nay, khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của các địa phương. Công nghiệp hoá nhanh trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Các nguồn vốn nước ngoài như vay, viện trợ... tuy quan trọng nhưng cuối cùng cũng phải trả bằng cách này hay cách khác, trong khi đó ngân sách của Trung ương cấp ngày càng hạn hẹp. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá địa phương là tích cực đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ để có ngoại tệ nhập khẩu. Bởi vậy xuất khẩu của các địa phương quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu, quyết định tốc độ công nghiệp hoá của chính địa phương đó. Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. ở góc độ địa phương, hiện nay vẫn tồn tại cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sự phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: - Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé, tăng trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế hạn chế. - Thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, xuất khẩu do đó cần xuất phát từ nhu cầu thị trường quốc tế để tổ chức sản xuất. Điều này sẽ có tác dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của xuất khẩu thể hiện: (1) Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn nếu phát triển xuất khẩu TCMN tức là tạo cơ hội cho các ngành trồng cói, đay... và các vùng nguyên liệu phát triển, sẽ phát triển các làng nghề về TCMN. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất. (2) Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất. Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào doanh nghiệp sản xuất. Thứ ba, xuất khẩu góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống, giảm bớt tệ nạn xã hội. Tác động của xuất khẩu đối với xã hội bao gồm nhiều mặt, trước hết thúc đẩy các ngành sản xuất phục hồi và phát triển, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng vạn lao động thủ công, tạo việc làm có thu nhập ổn định. Góp phần giải quyết nỗi lo không có việc làm của thanh niên và các tầng lớp xã hội khác. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là một hoạt động có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chính sách xuất khẩu hàng hoá thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng thị trường du lịch, vận tải quốc tế... Mặt khác các quan hệ này lại tạo điều kiện để mở rộng xuất khẩu, kinh tế phát triển và gắn bó chặt chẽ với phân công lao động quốc tế. Thứ năm, xuất khẩu là nhân tố thúc đẩy các doanh nghiệp luôn đổi mới và hoàn thiện quản lý sản xuất kinh doanh. Với những lý do đã trình bày ở trên cho thấy xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng TCMN nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội để tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Do cạnh tranh sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời xuất khẩu giúp doanh nghiệp có ngoại tệ để tái đầu tư cho quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu sản xuất và tiêu dùng cần thiết, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Ngoài ra khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên, tăng doanh số và lợi nhuận; đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín của doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing cũng như sự phân bố và mở rộng trong việc cấp giấy phép. Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc tạo nguồn vốn chủ yếu để đầu tư, mua sắm mở rộng kinh doanh, trang bị máy móc, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu, đổi mới dây chuyền công nghệ... Có thể nói hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc nên không những chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn là những sản phẩm văn hoá phục vụ đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Vì vậy, cần tận dụng những điểm mạnh có được để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là việc làm cần thiết vì không những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Do hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước và nguyên liệu nhập khẩu thường không đáng kể nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt mức thực thu ngoại tệ rất cao, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động nông thôn. Mặt khác, hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đều mang những giá trị văn hoá, lịch sử nhất định nên việc xuất khẩu các mặt hàng này cũng có một vai trò không nhỏ trong việc truyền bá, giao lưu văn hoá Việt Nam đến các nước trên thế giới. b) Đặc điểm xuất khẩu hàng TCMN - Đặc điểm về sản phẩm: Đặc điểm nổi bật về sản phẩm hàng TCMN chủ yếu và phổ biến là sản phẩm thủ công truyền thống in đậm sắc thái văn hoá trong sản phẩm. Sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày; phần lớn quá trình sản xuất bằng tay, riêng công đoạn hỗ trợ có thể sử dụng máy móc; sản xuất dựa trên kỹ thuật hay công nghệ truyền thống (có từ 100 năm về trước) nhưng có thể tiến hành cải tiến kỹ thuật hay công nghệ mà không ảnh hưởng cơ bản đến sản phẩm thủ công đó; sử dụng phần lớn nguyên liệu truyền thống có tại địa phương. Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm đều mang tính cá biệt và có sắc thái đặc trưng riêng của mỗi một làng nghề. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt đâu là gốm, sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh) với Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình, chùa, hoa văn trên các trống đồng đến những nét chấm phá trên các bức thêu... đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng tôn giáo của từng vùng. Các sản phẩm hàng TCMN vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ cao, nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền, chùa,... Người thợ thủ công sản xuất hàng thủ công, trước hết là do yêu cầu kinh tế và nguồn sống của mình. Do đó, sản phẩm thủ công truyền thống tự thân đã là sản phẩm hàng hoá. Đó là các sản phẩm có giá trị kinh tế, nhưng đậm nét mỹ thuật, mỹ nghệ duyên dáng, thanh thoát bởi đó là sự kết hợp khéo léo, nhuần nhị vẻ đẹp nghệ thuật cổ với vẻ đẹp cách tân rất hiện đại, vừa sâu lắng, tinh tế lại vừa bóng bẩy. Chúng được mua bán, trao đổi với số lượng lớn trên thị trường trong nước và quốc tế, đem lại nguồn lợi kinh tế cho đất nước, cho doanh nghiệp cũng như cho người thợ ở các làng nghề. - Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Hiện nay, sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới. Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ rất khác nhau, mang nét đặc trưng của làng nghề và thoả mãn những nhu cầu riêng biệt của con người, do vậy mỗi làng nghề đều hướng tới những thị trường riêng. Vì vậy, sự thăng trầm trong thị trường tiêu thụ của các làng nghề cũng phụ thuộc vào sự thăng trầm của từng thị trường đó. Sản phẩm hàng TCMN hiện nay không chỉ có khả năng đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước, có khả năng đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. - Đặc điểm về vốn và quan hệ tín dụng: Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho các làng nghề hoạt động được trong cơ chế thị trường. Vốn là yếu tố quan trọng giúp các cơ sở ở các làng nghề mua sắm nguyên liệu, dụng cụ sản xuất, trả công cho lao động... Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất ở các làng nghề diễn ra liên tục. Mặt khác, vốn còn là yếu tố giúp các cơ sở của các làng nghề đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất đi lên sản xuất lớn. Nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để sản xuất hàng xuất khẩu. Đa số nguồn vốn sản xuất của các làng nghề hiện nay là của cá nhân hoặc hộ gia đình. Các nguồn vốn chủ yếu trong các làng nghề hiện nay gồm nhiều hình thức nhưng chủ yếu là hai hình thức: vốn tự có và vốn vay. Vốn tự có hiện chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các làng nghề, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế vay vốn đang gặp nhiều bất cập. Tuy nhiên, để đảm bảo làng nghề phát triển, không thể dựa hoàn toàn vào nguồn vốn tự có được, do lượng vốn này quá nhỏ so với yêu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. Đặc biệt, đối với các cơ sở sản xuất đã chuyên môn hoá, cần mở rộng phát triển sản xuất luôn đi cùng với đôỉ mới công nghệ, tạo lập mặt bằng nhà xưởng. Vốn vay đang có nhu cầu ngày càng tăng. Việc đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như đào tạo công nhân đòi hỏi cũng phải có vốn đầu tư. Vốn tự có trong các cơ sở sản xuất của làng nghề không đáng kể so với nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt do đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất. Bởi vậy, vốn vay hiện nay chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển làng nghề nói riêng cũng như ngành nghề nông thôn nói chung. Tại các làng nghề hiện nay quy mô vốn của đa số các cơ sở còn nhỏ, mức độ đầu tư cho tài sản cố định còn thấp, nhiều cơ sở thiếu vốn nhưng lại không có nhiều cơ hội để tiếp cận các nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi; đã xuất hiện một số hộ và cá nhân có vốn đứng ra làm “chủ bao mua”, “cai đầu dài”, làm đại lý cung ứng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm cho cả làng. Nhiều “ông cai” có trong tay từ hàng trăm triệu đồng đến hàng tỷ đồng. Những nguời này có quan hệ với chủ bao mua lớn ở các đô thị như Hà Nội, Thành phố HCM và hiểu rõ nhất các kênh cung ứng và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. 1.1.2. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Cơ cấu sản phẩm thủ công mỹ nghệ Ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có thể được phân loại thành 10 tiểu ngành, gồm các nhóm cơ bản dưới đây: - Tre, mây, cói, lá - Gốm - Gỗ - Thêu - Dệt - Kim loại - Giấy thủ công - Các loại nguyên liệu khác nhau - Tác phẩm nghệ thuật - Khác Theo báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thì sản xuất hàng thủ công ở tất cả những tiểu ngành này chủ yếu dựa trên một hệ thống gồm 2.017 làng nghề trên toàn quốc. Trong 10 nhóm hàng nêu trên, có các nhóm hàng cần quan tâm là: * Tre, mây, cói và lá Từ nguồn dồi dào nguyên liệu thô ở các địa phương như tre, mây, cói và lá và cũng gồm có các nguyên liệu thô như guột, bèo tây, chuối hoặc rơm, Việt Nam sản xuất ra những đồ dùng trong gia đình như rổ, nôi, va-li, túi mua hàng, thảm lót (đĩa, cốc), bình phong và nhiều vật dụng khác. Các sản phẩm được phục vụ cho mục đích sử dụng và trang trí, sản phẩm rất đa dạng, phục vụ những thị hiếu khác nhau của khách hàng. Sản phẩm đan thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các sản phẩm này được sản xuất ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước nhưng hầu hết tập trung ở Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Thanh Hoá, Khánh Hoà, Tiền Giang. Trong các năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm thủ công từ nguyên liệu bèo tây đã phát triển nở rộ. Có nhiều làng nghề ở các tỉnh phía nam như Tiền Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chuyên về các sản phẩm từ bèo tây. Hoạt động cung cấp nguyên liệu như tre, mây, lá là một ngành tự thân có tầm quan trọng đặc biệt đối với thu nhập ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, các nguyên liệu thô dồi dào trước kia ngày càng trở nên khan hiếm. Việt Nam hiện phải nhập khẩu tre từ Trung Quốc và mây từ Lào, Campuchia và In-đô-nê-xi-a. Nguyên liệu mây cần phải có sự lưu tâm đặc biệt do nó có truyền thống rất lâu đời. Việt Nam đã luôn được nhìn nhận là một đất nước của mây (đứng thứ ba chỉ sau In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a) và người Việt Nam rất giỏi chế tạo các sản phẩm không chỉ từ các giỏ đan làm bằng mây mà còn cả những đồ dùng bằng mây sử dụng trong nhà và ngoài trời. Ghế, bàn và ngăn kéo mây sản xuất ở Việt Nam đã trở nên rất phổ biến ở nhiều nước như Đức, Italia và Mỹ với nhu cầu thậm chí còn đang tăng lên. * Gốm sứ Nghề gốm của Việt Nam có thể được chia ra làm 04 nhóm chính: Bộ đồ ăn, bình và lọ hoa, tượng và những vật dụng trang trí khác. Tuỳ thuộc vào công nghệ và nhiệt độ nung mà các sản phẩm sẽ là gốm, sứ. sành hay đất nung. Nghề gốm đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay và các cơ sở sản xuất gốm phân bổ trên khắp cả nước. Tuy nhiên, một số trung tâm sản xuất sản phẩm gốm lớn nằm ở Hà Nội (Bát Tràng), Đồng Nai và Bình Dương. Gần đây, các sản phẩm nghệ thuật làm từ sành phục vụ nhu cầu trang trí nhà và vườn đã phát triển mạnh ở các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long, Hà Nam và Bắc Ninh và đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của các nhà nhập khẩu trên khắp thế giới. * Thêu ren và các sản phẩm dệt Các sản phẩm thêu ren bằng tay hầu hết là khăn trải bàn, quần áo, váy, túi và những vật dụng sử dụng thông thường. Những sản phẩm này được tạo ra chủ yếu ở các làng nghề trong các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam. Trước kia, những sản phẩm này chủ yếu được xuất khẩu sang các nước Đông Âu nhưng ngày nay, thị trường xuất khẩu đã mở rộng sang nhiều nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italia. Các nhà xuất khẩu sản phẩm này gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thâm nhập thị trường mới và cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất bằng máy từ các nhà máy của Trung Quốc. Sản phẩm dệt ở Việt Nam đượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan