Trong những năm qua, du lịch nói chung và du lịch sinh thái (DLST) nói riêng đã và đang phát triển nhanh chống trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, trong những năm gần đây DLST như một hiện tượng và xu thế phát triển ngày càng chiếm được sự quan tâm của các nước trên thế giới. Bởi đó, không chỉ là một loại hình du lịch thiên nhiên hấp dẫn mà còn là du lịch có trách nhiệm, hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng, góp phần tích cực vào sự phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng có tính chất toàn cầu của DLST đối với bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa của các dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội nên ngày du lịch thế giới 27-9-2002 được Tổ chức Du lịch thế giới chọn chủ đề “Du lịch sinh thái- bí quyết để phát triển bền vững” và Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy năm 2002 làm năm quốc tế về DLST.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu, một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội. Du lịch đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác liên kết với các nước [9, tr.178].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch” [10, tr.202].
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2001- 2010 được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22.7.2002 đã xác định: DLST là một trong hai định hướng ưu tiên phát triển góp phần đảm bảo phát triển du lịch bền vững, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Du lịch là ngành kinh tế chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thu nhập quốc dân. Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì du lịch nói chung, DLST nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng. DLST là hình thức du lịch đặc thù, du lịch có trách nhiệm với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, được du khách quốc tế và trong nước rất quan tâm.
Tỉnh Kiên Giang nằm trong vùng Tây Nam Bộ - một trong những khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch của Việt Nam. Tỉnh Kiên Giang được thiên nhiên ưu đãi: Có rừng, có biển, có hải đảo có đồi núi, đồng bằng, danh lam thắng cảnh đẹp và hệ sinh thái phong phú; tiềm năng kinh tế tương đối đa dạng, đã tạo ra một lợi thế về du lịch rất lớn. KDTSQ của tỉnh Kiên Giang được UNESCO công nhận là KDTSQ thế giới (năm 2006). Đó là điều kiện thuận lợi để tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng.
Lịch sử Kiên Giang gắn liền với truyền thống cách mạng anh hùng của cả nước, có đường biên giới dài, nơi đây là căn cứ cách mạng, sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc. Chính điều này tạo ra lợi thế về du lịch.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII đã khẳng định: Tập trung đầu tư ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh Ủy về phát triển Phú Quốc thành khu DLST chất lượng cao của cả nước và khu vực, đồng thời phát triển đồng bộ các vùng du lịch trọng điểm khác của tỉnh [7, tr.55-56].
Du lịch nói chung và DLST nói riêng được Tỉnh xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, lợi thế so sánh quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, du lịch của tỉnh Kiên Giang đã phát triển nhanh chống và ngày càng thu hút thêm nhiều du khách nội địa quốc tế. Tiềm năng du lịch của tỉnh Kiên Giang đặc biệt là biển, đảo, rừng, cảnh quan thiên nhiên đã từng bước khai thác có hiệu quả. Thực tế cho thấy, tiềm năng DLST ở tỉnh Kiên Giang là rất lớn. Nhưng trong thời gian qua, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan việc khai thác du lịch ở đây chưa xứng tầm. Lượng khách du lịch đến Kiên Giang còn ít, chỉ mang tính tự phát, các trung tâm lữ hành các tỉnh và trong nước chưa quan tâm đúng mức.
Sản phẩm du lịch là yếu tố quyết định sự thành công của một điểm du lịch. Nếu được quan tâm đúng mức, đầu tư xứng tầm, sự phối hợp đồng bộ, khai thác kịp thời, hợp lý, DLST ở tỉnh Kiên Giang sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, việc nghiên cứu DLST là một trong những vấn đề bức xúc. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn đóng góp, bổ sung nhận thức và sự vận dụng phát triển của DLST nói chung. Vì vậy tôi chọn đề tài “Du lịch sinh thái ở Tỉnh Kiên Giang” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
123 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Du lịch sinh thái ở Tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, du lịch nói chung và du lịch sinh thái (DLST) nói riêng đã và đang phát triển nhanh chống trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, trong những năm gần đây DLST như một hiện tượng và xu thế phát triển ngày càng chiếm được sự quan tâm của các nước trên thế giới. Bởi đó, không chỉ là một loại hình du lịch thiên nhiên hấp dẫn mà còn là du lịch có trách nhiệm, hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng, góp phần tích cực vào sự phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng có tính chất toàn cầu của DLST đối với bảo tồn môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa của các dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội nên ngày du lịch thế giới 27-9-2002 được Tổ chức Du lịch thế giới chọn chủ đề “Du lịch sinh thái- bí quyết để phát triển bền vững” và Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy năm 2002 làm năm quốc tế về DLST.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu, một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội. Du lịch đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác liên kết với các nước [9, tr.178].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch” [10, tr.202].
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2001- 2010 được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22.7.2002 đã xác định: DLST là một trong hai định hướng ưu tiên phát triển góp phần đảm bảo phát triển du lịch bền vững, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Du lịch là ngành kinh tế chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thu nhập quốc dân. Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì du lịch nói chung, DLST nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng. DLST là hình thức du lịch đặc thù, du lịch có trách nhiệm với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, được du khách quốc tế và trong nước rất quan tâm.
Tỉnh Kiên Giang nằm trong vùng Tây Nam Bộ - một trong những khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch của Việt Nam. Tỉnh Kiên Giang được thiên nhiên ưu đãi: Có rừng, có biển, có hải đảo có đồi núi, đồng bằng, danh lam thắng cảnh đẹp và hệ sinh thái phong phú; tiềm năng kinh tế tương đối đa dạng, đã tạo ra một lợi thế về du lịch rất lớn. KDTSQ của tỉnh Kiên Giang được UNESCO công nhận là KDTSQ thế giới (năm 2006). Đó là điều kiện thuận lợi để tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng.
Lịch sử Kiên Giang gắn liền với truyền thống cách mạng anh hùng của cả nước, có đường biên giới dài, nơi đây là căn cứ cách mạng, sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc. Chính điều này tạo ra lợi thế về du lịch.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII đã khẳng định: Tập trung đầu tư ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh Ủy về phát triển Phú Quốc thành khu DLST chất lượng cao của cả nước và khu vực, đồng thời phát triển đồng bộ các vùng du lịch trọng điểm khác của tỉnh [7, tr.55-56].
Du lịch nói chung và DLST nói riêng được Tỉnh xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, lợi thế so sánh quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, du lịch của tỉnh Kiên Giang đã phát triển nhanh chống và ngày càng thu hút thêm nhiều du khách nội địa quốc tế. Tiềm năng du lịch của tỉnh Kiên Giang đặc biệt là biển, đảo, rừng, cảnh quan thiên nhiên… đã từng bước khai thác có hiệu quả. Thực tế cho thấy, tiềm năng DLST ở tỉnh Kiên Giang là rất lớn. Nhưng trong thời gian qua, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan việc khai thác du lịch ở đây chưa xứng tầm. Lượng khách du lịch đến Kiên Giang còn ít, chỉ mang tính tự phát, các trung tâm lữ hành các tỉnh và trong nước chưa quan tâm đúng mức.
Sản phẩm du lịch là yếu tố quyết định sự thành công của một điểm du lịch. Nếu được quan tâm đúng mức, đầu tư xứng tầm, sự phối hợp đồng bộ, khai thác kịp thời, hợp lý,…DLST ở tỉnh Kiên Giang sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, việc nghiên cứu DLST là một trong những vấn đề bức xúc. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn đóng góp, bổ sung nhận thức và sự vận dụng phát triển của DLST nói chung. Vì vậy tôi chọn đề tài “Du lịch sinh thái ở Tỉnh Kiên Giang” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, du lịch nói chung, DLST nói riêng đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau.
Điển hình là một số công trình nghiên cứu:
- “Thị trường du lịch của Tỉnh Quang Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Xuân Ảnh (2006) luận văn làm rõ cơ sở lý luận về thị trường du lịch và một số kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch ở một số địa phương.
- “Kinh tế du lịch Thừa Thiên Huế- Tiềm năng và phương hướng phát triển”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hòa học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1997).
- “Du lịch trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Tỉnh Bình Thuận”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Dụng Văn Duy (2004) Luận văn nói rõ đặc điểm, vai trò của du lịch trong sự phát triển kinh tế, các nhân tố tác động đến du lịch trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
- “Phát triển du lịch ở Bà Rịa – Vũng Tàu”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Trần Quốc Nhật (1996) luận văn làm rõ tính tất yếu khách quan và vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
- “Kinh tế du lịch ở Thanh Hóa, thực trạng và giải pháp phát triển”, Luận văn thạc sĩ kinh tế Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005).
- “Phát triển du lịch ở An Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Hằng (1999)
- “Phát triển du lịch Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị của Lê Mai Khanh (2005).
Tỉnh Kiên Giang có một số đề tài nghiên cứu du lịch:
“Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc Tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Huỳnh Vĩnh Lạc (2005).
Ngoài ra, còn có quy hoạch tổng thể phát triển ngành thương mại – du lịch của Tỉnh đến năm 2010, Quy hoạch phát triển du lịch ở đảo Phú Quốc, Hà Tiên, Hòn Đất, Kiên Lương, định hướng phát triển du lịch ở U Minh Thượng…
Tuy nhiên, đó là định hướng phát triển du lịch ở từng vùng, ngành khác nhau, việc đi sâu nghiên cứu vai trò, đánh giá thực trạng DLST ở Tỉnh Kiên Giang thì vẩn còn mới mẽ, ít người nghiên cứu. Là một công trình khoa học được nghiên cứu trên cơ sở kế thừa nhiều công trình nghiên cứu trước đó, nhưng được vận dụng vào địa bàn mới. Đây là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn rất cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở làm rõ đặc điểm, vai trò của DLST với vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, phân tích đánh giá thực trạng DLST ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển DLST trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ đặc điểm vai trò, nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của DLST.
- Phân tích thực trạng của DLST ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua, rút ra những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là làm rõ vai trò, đánh giá đúng thực trạng của DLST ở tỉnh Kiên Giang và đề xuất các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế DLST đối với phát triển kinh tế-xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
DLST trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Kiên Giang từ năm 2001 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – lênin, các quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, Chính sách pháp luật của nhà nước về phát triển du lịch, đồng thời kế thừa những vấn đề lý luận về du lịch và DLST của các học giả kinh tế trước đó để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở tỉnh Kiên Giang.
Luận văn còn sử dụng phương pháp trong nghiên cứu kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích, thống kê, tổng hợp, lôgic-lịch.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích rõ vai trò, đánh gia đúng tiềm năng DLST đề ra các giải pháp để tiếp tục phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng các kế hoạch phát triển DLST ở tỉnh Kiên Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. DU LỊCH SINH THÁI VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI
1.1.1. Du lịch sinh thái và những đặc điểm cơ bản
1.1.1.1. Những quan niệm về du lịch sinh thái
Trong những năm qua, DLST như một hiện tượng và xu thế phát triển ngày càng chiếm được sự quan tâm của các nước trên thế giới. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng; phát triển DLST đã mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập quốc gia và thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, nơi có cảnh quan thiên nhiên, văn hóa hấp dẫn. Mặt khác, DLST còn góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khoẻ cộng đồng thông qua giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. DLST là loại hình du lịch có trách nhiệm, thông qua các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, phát triển phúc lợi cộng đồng và đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và nhanh chống thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa có nhận thức thống nhất, còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm DLST. Các tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu về loại hình du lịch này đều đưa ra những định nghĩa của riêng mình:
Một trong những định nghĩa được coi là sớm về DLST mà đến nay vẫn được nhiều người quan tâm là định nghĩa của Hội DLST Quốc tế đưa ra năm 1991: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm đối với các vùng tự nhiên, bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống yên bình của người dân địa phương” [16, tr.11].
Định nghĩa này đề cao trách nhiệm bảo vệ môi trường, giữ gìn, tôn tạo, tránh sự ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái, và cả cuộc sống của cư dân địa phương.
Theo quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF - World Wild Fund): "Du lịch sinh thái đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới các khu vực thiên nhiên hoang dã, gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và những người bản địa phục vụ tại đó" [16, tr.11].
Ở định nghĩa này, cũng đề cập đến hoạt động của DLST, đó là các khu vực tự nhiên hoang dã và điều quan trọng là giảm thiểu những tác động tiêu cực đối môi trường tự nhiên, mang lại những lợi ích kinh tế cho cộng cư dân địa phương, những người bản địa làm việc trực tiếp trong ngành du lịch.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO - World Tourism Organisation):
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích để chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà du khách đến thăm. Ngoài ra, du lịch sinh thái phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với người dân bản địa và du khách đến thăm [16, tr.11].
Đây là một định nghĩa tương đối đầy đủ nó phản nội dung hoạt động cũng như những đặc điểm, mục đích của DLST. Đó là loại hình du lịch mang tính giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân trong việc bảo tồn giữ gìn môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá để đảm bảo cho sự phát triển bền vững ở những nơi mà du khách tới thăm quan.
Tại hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tháng 9-1999 tại Hà Nội: "Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương" [29].
Có thể nói đây là một định nghĩa đầu tiên của Việt Nam về DLST mang đầy đủ những ý nghĩa và nội dung của loại hình du lịch này. Nó được coi là cơ sở lý luận cho các nghiên cứu và ứng dụng thực tế việc phát triển DLST ở Việt Nam.
Luật du lịch Việt nam (2005) đưa ra khái niệm DLST như sau: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [26, tr.11].
Mặc dù có thể khác nhau về diễn đạt và cách thể hiện nhưng trong các định nghĩa về DLST đều có sự thống nhất cao về nội dung ở bốn điểm: Thứ nhất, được thực hiện trong môi trường tự nhiên còn hoang sơ hoặc tương đối hoang sơ gắn với văn hoá bản địa. Thứ hai, hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính tự nhiên, văn hoá và xã hội. Thứ ba, có tính giáo dục môi trường cao và có trách nhiệm với môi trường. Thứ tư, phải mang lại lợi ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia của cộng đồng cư dân địa phương.
Các quan niệm trên về DLST đã tiếp cận theo nghĩa rộng bao quát được nội dung, tính chất, mục đích của DLST.
Xét trên phạm vi nghiên cứu có thể cho rằng: Du lịch sinh thái phản ánh mối quan hệ tích cực của con người với tự nhiên. Trong đó con người hòa nhập vào tự nhiên, biến mình thành một bộ phận của tự nhiên, vừa khai thác tự nhiên, hưởng dụng vẽ đẹp, lợi ích của tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng ngoạn của mình, đồng thời nuôi dưỡng và phát triển tự nhiên, bảo đảm cho con người và tự nhiên một cuộc sống trường tồn.
Theo đó, du dịch sinh thái là hình thức phát triển du lịch bền vững. Nội dung hoạt động diễn ra trong môi trường thiên nhiên, không chỉ là loại hình du lịch thiên nhiên hấp dẫn, mà còn là du lịch có trách nhiệm, hỗ trợ các mục tiêu bảo vệ môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa, phát triển cộng đồng và có tính giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường, duy trì các nguồn tài nguyên du lịch, tiến tới phát triển bền vững. Mục đích lớn nhất của DLST là góp phần tăng trưởng kinh tế, xã hội của quốc gia và địa phương. Đây có thể coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển của DLST.
Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái là những mặt bổ sung cho nhau của cùng một chương trình hành động. Phát triển du lịch phải đi liền với bảo vệ môi trường. Nếu không bảo vệ được môi trường sinh thái thì du lịch sẽ không phát triển. Do đó phát triển DLST tương đồng với phát triển du lịch bền vững. Nếu không phát triển du lịch theo hướng bền vững thì việc bảo vệ môi trường sẽ thất bại. Do đó, vừa phải tuân theo xu hướng phát triển du lịch đồng thời phải bảo vệ môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, DLST còn đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và địa phương.
Tóm lại, DLST là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách quan gây ra và tạo ra ích lợi cho những người dân địa phương tham gia tích cực.
1.1.1.2. Những đặc trưng cơ bản về du lịch sinh thái
- Các đặc trưng xuất phát từ sản phẩm du lịch sinh thái
Sản phẩm DLST về cơ bản cũng không cụ thể không tồn tại dưới dạng vật thể. Thành phần chính của sản phẩm DLST là dịch vụ, hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ. Sản phẩm DLST đa dạng và phong phú.
Do vậy việc đánh giá chất lượng sản phẩm DLST là rất khó khăn, vì thường mang tính chủ quan và phần lớn là không phụ thuộc người kinh doanh mà phụ thuộc vào người tiêu dùng - khách du lịch. Chất lượng sản phẩm DLST phụ thuộc vào tài nguyên du lịch.
Sản phẩm DLST thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do vậy, sản phẩm DLST ít có khả năng di chuyển được. Trên thực tế, không thể đưa sản phẩm DLST đến nơi có người tiêu dùng - khách du lịch mà bắt buộc người tiêu dùng phải đến với nơi có sản phẩm DLST để thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng.
Sản phẩm của DLST được tạo ra trên cơ sở giảm thiểu tác hại đến môi trường. Dịch dụ vận chuyển: chủ yếu bằng phương tiện như đi bộ trong rừng, xe đạp, du thuyền... ; dịch vụ lưu trú: DLST đòi hỏi chủ yếu là nhà nghỉ sinh thái, sử dụng vật liệu ở địa phương; dịch vụ ăn uống, đồ ăn, thức uống sạch, an toàn;…những sản phẩm DLST này thật sự ít gây tác hại cho môi trường sinh thái.
- Các đặc trưng xuất phát từ tạo lập các sản phẩm DLST
Quá trình tạo lập sản phẩm DLST phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và công phu, mang tính thẩm mỹ cao. Việc xây dựng nhà nghỉ sinh thái, sản xuất hàng lưu niệm....đòi hỏi phải có thời gian và đáp ứng được các tiêu chí. Tiêu chí của DLST là khai thác tối đa nguyên liệu sẵn có tại địa phương nhưng không làm tổn hại đến tài nguyên để tạo ra hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu du khách. Chính vì vậy, việc tạo lập sản phẩm DLST tốn nhiều thời gian, phải chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo ra những sản phẩm đặc thù.
Tạo lập sản phẩm du lịch không theo ý muốn chủ quan của những người kinh doanh dịch vụ mà phải theo quy định chung nhằm tạo ra sự đồng bộ, đảm bảo cảnh quan môi trường. Việc xây dựng cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển khách du lịch phải theo quy hoạch thống nhất đảm bảo cảnh quan thiên nhiên, không làm tổn hại đến môi trường sống xung quanh.
Hướng dẫn viên đòi hỏi phải có chuyên môn, đồng thời là tuyên truyền viên trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái, phải có kiến thức hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực như: kiến thức văn hóa dân tộc, am hiểu về tài nguyên thiên nhiên, động thực vật, ý thức cao trong bảo vệ môi trường, ...
- Các đặc trưng xuất phát từ tiêu dùng sản phẩm DLST
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm DLST trùng nhau về không gian và thời gian. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các hàng hóa thông thường khác. Do vậy, để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là khó khăn. Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm DLST là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch.
Việc tiêu dùng sản phẩm DLST thường không diễn ra điều đặn, mà có thể tập trung vào những thời điểm nhất định trong ngày (đối với dịch vụ lưu trú, nhà hàng, cơ sở ăn uống), trong tuần (đối với sản phẩm thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm là một số loại hình du lịch như: du lịch biển, du lịch nghỉ núi...) Vì vậy, trên thực tế hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính mùa vụ. Sự dao động trong tiêu dùng sản phẩm DLST gây khó khăn cho việc tổ chức và hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
Trong quá trình tiêu dùng, sản phẩm DLST ít mất đi vì được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Du khách thỏa mãn nhu cầu khi tiêu dùng sản phẩm du sinh thái thông qua quan sát, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng,...Do đó sản phẩm DLST thường vẫn tồn tại.
Ngoài ra, DLST hoạt động chủ yếu trong môi trường thiên nhiên với đặc điểm đi kèm là: loại hình du lịch khuyến khích bảo vệ môi trường sinh thái, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dân cư và đem lại lợi ích về kinh tế xã hội thúc đẩy sự phát triển bền vững. Loại hình này luôn được sự quan tâm điều hành của Chính phủ và các tổ chức môi trường thế giới.
DLST là một dạng hoạt động tiêu dùng ở trình độ cao, lại biểu hiện với hình thức kinh doanh. Người du lịch phải chi tiêu một khoản tiền nhất định cho việc đi lại, ăn ở, vui chơi, mua sắm…; xã hội phải cung cấp các điều kiện tất yếu về việc giao thông, phương tiện du lịch cho hoạt động này. Trong quá trình tiêu dùng sản phẩm du lịch tất nhiên có liên quan với việc trao đổi về mặt chính trị, văn hóa từ đó tạo nên chỉnh thể du lịch. Do đó, muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch dễ dàng đòi hỏi phải phát triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo lập và tiêu dùng sản phẩm du lịch sinh thái
- Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo lập các sản phẩm du lịch sinh thái
Tạo lập các sản phẩm DLST ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch.
DLST là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên rõ rệt. DLST còn có mối liên hệ mật thiết với địa điểm mà khách du lịch có ý định tới thăm quan là cảnh quan quan thiên nhiên tươi đẹp, môi trường trong lành, sự đa dạng, đặc sắc của văn hoá truyền thống bản địa, ngành nghề truyền thống. Tài nguyên của DLST gồm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn hai yếu tố này gắn kết với nhau tạo nên sự hấp dẫn của DLST.
Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức hoạt động, phạm vi cũng như cơ cấu và chuyên môn của khu, điểm DLST. Với mỗi loại tài nguyên có thể tổ chức loại hình du lịch với những đặc trưng riêng, loại hình riêng để phục vụ các nhu cầu và mục đích khác nhau của du khách.
Quy mô hoạt động du lịch được xác định trên cơ sở khối lượng, chất lượng nguồn tài nguyên du lịch. Tài nguyên là yếu tố cơ bản tạo ra sản phẩm của DLST và nó cũng tham gia vào việc tạo ra tính mùa vụ trong hoạt động du lịch, quyết định tính nhịp điệu của dòng khách, thị trường khách du lịch.
Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề để phát triển DLST. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. DLST là loại hình du lịch gắn liền với thiên nhiên và môi trường nên nguồn tài nguyên lại càng quan trọng hơn và cũng có nguy cơ thường xuyên bị đe dọa xâm hại và tàn phá. Muốn phát triển DLST một cách bền vững thì một hoạt động mang tính nguyên tắc là việc khai thác phải đi đôi với việc bảo vệ và nuôi dưỡng tài nguyên.
Một quốc gia, một khu vực được du khách quan tâm chỉ khi ở đó có nguồn tài nguyên về du lịch phong phú, hệ động, thực vật đa dạng được bảo tồn và phát triển, môi trường thiên nhiên trong lành, môi trường văn hóa xã hội độc đáo. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cho du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì chính tài nguyên là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình và sản phẩm DLST. Việc phát triển nhà nghỉ sinh thái người dân khai thác gỗ trong rừng làm cho nguồn tài nguyên rừng cạn kiệt, xảy ra tình trạng phá rừng. Dịch vụ ăn uống hàng tiêu dùng hàng lưu niệm người khai thác săn bắn động vật, hải sản quý hiếm từ đó ảnh hưởng đến việc bảo tồn. Du khách dùng lửa để đun nấu, nướng các loài động vật, thủy sản trong khi đi tham quan làm xảy ra nguy cơ cháy rừng, nguy hại đến tài nguyên rừng...
Tạo lập sản phẩm DLST chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ DLST là toàn bộ phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra sản phẩm dịch vụ hàng hoá du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch. Với DLST nó bao gồm các hoạt động nhằm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu đi lại, ăn uống, lưu trú, mua sắm, giải trí, thông tin liên lạc, các hoạt động giảng giải, hướng dẫn, nghiên cứu thiên nhiên và văn hoá… của khách du lịch. Vì vậy, phạm vi hoạt động kinh doanh rất rộng, bao gồm hệ thống các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, các điểm vui chơi giải trí, cho đến hệ thống giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc…
Mặc dù DLST là hình thức du lịch dựa nhiều vào thiên nhiên, tạo lập sản phẩm DLST phải đảm bảo nguyên tắc hạn chế tối đa việc tác hại đến môi trường thiên nhiên và hệ sinh thái. Tuy nhiên, đây là một hoạt động phục vụ “con người” trong khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển và thu hút khách du lịch đó là: đường giao thông, phương tiện đi lại, cơ sở lưu trú, dịch vụ y tế, các dịch vụ bổ sung như hệ thống thông tin liên lạc, các hoạt động vui chơi giải trí, hàng lưu niệm… đặc biệt vấn đề thông tin liên lạc là một khâu quan trọng đối với phát triển du lịch nói chung và phát triển DLST nói riêng. Mặc dù, muốn tách khỏi sự ồn ào của đời sống đô thị công nghiệp tuy nhiên du khách vẫn cần có thông tin liên lạc để liên lạc với người thân, bạn bè và giải quyết công việc làm ăn.
Những nơi có điều kiện cho phát triển DLST thường nằm ở vùng sâu, vùng xa việc đi lại thường gặp nhiều khó khăn, vì vậy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để du khách có thể đến được những điểm thăm quan là rất cần thiết. Tuy n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BAN SUA LAN II IN.doc
- bia.doc