Luận văn Du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX du lịch quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tương đối nhanh và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong làn sóng văn hoá - xã hội. Du lịch đang trở thành ngành công nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Du lịch không những mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà nó còn chứa đựng đầy bản sắc nhân văn. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành sản xuất dịch vụ khác, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, xoá đói giảm nghèo.

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với chủ trương đổi mới để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã có phương hướng phát triển ngành du lịch phù hợp với du lịch thời đại qua các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình hành động quốc gia về Du lịch. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định "Phát triển du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn". Đây là một kết quả khảo cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động du lịch trong nước và quốc tế, là định hướng và quan điểm chỉ đạo phát triển du lịch. Nhờ đó trong những năm qua Du lịch Việt Nam thực sự bước vào thời kỳ phát triển mới và ngày càng khẳng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế của đất nước.

Đặc biệt bước vào Thế kỷ 21, trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc và toàn diện tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong các quốc gia và các quan hệ quốc tế đã tạo một động lực mạnh mẽ cho sự tham gia của các nước vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực trong đó có lĩnh vực du lịch. Kinh tế du lịch Việt Nam đang tham gia vào nhịp sống chung của kinh tế thế giới và đã thực sự khẳng định được vị thế trong nền kinh tế quốc dân của quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Du lịch sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, nâng cao uy tín trên trường quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước, tiếp cận với môi trường du lịch có quy mô toàn cầu mang tính hệ thống nhưng đồng thời phải đối phó với không ít khó khăn và thách thức.

Trong xu thế phát triển đó, Nghệ An – một tỉnh nằm trong khu vực Bắc Trung bộ – nơi tập trung nhiều nguồn tài nguyên du lịch có giá trị quốc gia và quốc tế, có đường biên giới giáp với nước bạn Lào anh em đang có nhiều cơ hội vươn dậy trong thời đại mới.

Là nơi thắt lại của dải miền Trung, một trong những yết hầu trên con đường xuyên Việt, nằm giữa các trung tâm du lịch quan trọng của cả nước: Hạ Long, Hà Nội, Huế, Quảng Nam, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không khá phát triển, đã tạo cho Nghệ An trở thành điểm dừng hợp lý cho các chương trình du lịch trong nước đi từ Bắc vào Nam và tuyến du lịch quốc tế đi từ Đông Bắc Thái Lan qua Lào sang Việt Nam đến Hà Nội theo đường 7 và đường 8.

Với diện tích 18.480 km2, 83% lãnh thổ là núi, rừng với thảm thực vật phong phú, đa dạng, có Vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt là những kho tàng bảo tồn đa dạng sinh học chứa đựng sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Hơn nữa, Nghệ An lại có 82 km đường bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp như bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết (Nghi Lộc), Diễn Thành (Diễn Châu), các bãi ở Quỳnh Lưu. đã tạo nên những khu vực cảnh quan, những điểm nghỉ dưỡng biển đầy sức lôi cuốn. Đặc biệt, Nghệ An còn có khu di tích Kim Liên - Nam Đàn, quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch và nhân dân trong nước, quốc tế đến tham quan, chiêm ngưỡng. Chính vì vậy, trong quyết định số 97/2002/QĐ-TTG ngày 22/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010, Nghệ An được xác định là một trong 14 trọng điểm phát triển du lịch của cả nước.

Nhận thức rõ những lợi thế và tiềm năng cho phát triển du lịch, năm 1996 Nghệ An đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1996- 2010, xác định phương hướng của Tỉnh là khai thác tài nguyên du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững và có hiệu quả với năm trung tâm du lịch làm hạt nhân: Khu du lịch Cửa Lò, du lịch thành phố Vinh, du lịch Nam Đàn, du lịch Vườn quốc gia Pù Mát và Khu du lịch sinh thái - văn hoá lịch sử Quỳ Châu- Quế Phong.

Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI nhiệm kỳ 2006- 2010 về Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của Tỉnh cũng đã xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của Tỉnh; phát triển du lịch là một trong 9 chương trình, dự án trọng điểm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2006 - 2010.

Phải khẳng định rằng, trong những năm qua du lịch Nghệ An đã có bước phát triển nhanh và ngày càng cho thấy đây là một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, đóng góp cho ngân sách địa phương ngày càng nhiều, góp phần đưa KT-XH của tỉnh từng bước được cải thiện. Du lịch phát triển thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân; nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt đã đóng góp không nhỏ vào việc hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 của tỉnh.

Tuy Nghệ An là tỉnh giàu tiềm năng du lịch cả về tự nhiên, xã hội và nhân văn, những năm qua du lịch đã có những bước phát triển nhưng kết quả đạt được lại chưa tương xứng với những tiềm năng đó. Tài nguyên du lịch Nghệ An đa dạng, phong phú nhưng không được quản lý, khai thác hợp lý để phát triển đa dạng các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá thiên nhiên. Lượng khách du lịch đến Nghệ An tăng nhanh nhưng chủ yếu là khách nội địa, tỷ trọng khách quốc tế rất thấp và chưa có những sản phẩm mang tính đặc thù.

Kết cấu hạ tầng đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hệ thống đường giao thông chất lượng còn kém, mới chỉ tiếp cận đến một số khu, điểm du lịch; vấn đề nước sạch, điện, thông tin liên lạc phục vụ cho tiêu dùng chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là đối với các vùng có tiềm năng phát triển loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vùng miền núi, hải đảo.

Việc đóng góp vào ngân sách của du lịch so với GDP của tỉnh còn thấp. Nghệ An vẫn là một trong những tỉnh có nguồn đầu tư cho du lịch chưa nhiều, điều kiện tự nhiên chưa được thuận lợi, nhận thức về phát triển du lịch còn hạn chế .

Vì vậy, Du lịch Nghệ An cần có bước phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có và sớm trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 đưa Nghệ An ra khỏi tỉnh nghèo.

Mặt khác, Du lịch Nghệ An cần có sự đánh giá chân thực, khách quan về thực trạng của phát triển du lịch thời kỳ 2002-2007 để từ đó đề ra các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Nghệ An trong giai đoạn tiếp theo - thời kỳ 2008- 2020, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sớm đưa du lịch Nghệ An hội nhập với du lịch cả nước và quốc tế.

Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập” làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.

 

doc124 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX du lịch quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tương đối nhanh và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong làn sóng văn hoá - xã hội. Du lịch đang trở thành ngành công nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Du lịch không những mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà nó còn chứa đựng đầy bản sắc nhân văn. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành sản xuất dịch vụ khác, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, xoá đói giảm nghèo. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với chủ trương đổi mới để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã có phương hướng phát triển ngành du lịch phù hợp với du lịch thời đại qua các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình hành động quốc gia về Du lịch. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định "Phát triển du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn". Đây là một kết quả khảo cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động du lịch trong nước và quốc tế, là định hướng và quan điểm chỉ đạo phát triển du lịch. Nhờ đó trong những năm qua Du lịch Việt Nam thực sự bước vào thời kỳ phát triển mới và ngày càng khẳng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế của đất nước. Đặc biệt bước vào Thế kỷ 21, trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc và toàn diện tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong các quốc gia và các quan hệ quốc tế đã tạo một động lực mạnh mẽ cho sự tham gia của các nước vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực trong đó có lĩnh vực du lịch. Kinh tế du lịch Việt Nam đang tham gia vào nhịp sống chung của kinh tế thế giới và đã thực sự khẳng định được vị thế trong nền kinh tế quốc dân của quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Du lịch sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, nâng cao uy tín trên trường quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước, tiếp cận với môi trường du lịch có quy mô toàn cầu mang tính hệ thống nhưng đồng thời phải đối phó với không ít khó khăn và thách thức. Trong xu thế phát triển đó, Nghệ An – một tỉnh nằm trong khu vực Bắc Trung bộ – nơi tập trung nhiều nguồn tài nguyên du lịch có giá trị quốc gia và quốc tế, có đường biên giới giáp với nước bạn Lào anh em đang có nhiều cơ hội vươn dậy trong thời đại mới. Là nơi thắt lại của dải miền Trung, một trong những yết hầu trên con đường xuyên Việt, nằm giữa các trung tâm du lịch quan trọng của cả nước: Hạ Long, Hà Nội, Huế, Quảng Nam, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không khá phát triển, đã tạo cho Nghệ An trở thành điểm dừng hợp lý cho các chương trình du lịch trong nước đi từ Bắc vào Nam và tuyến du lịch quốc tế đi từ Đông Bắc Thái Lan qua Lào sang Việt Nam đến Hà Nội theo đường 7 và đường 8. Với diện tích 18.480 km2, 83% lãnh thổ là núi, rừng với thảm thực vật phong phú, đa dạng, có Vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt là những kho tàng bảo tồn đa dạng sinh học chứa đựng sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Hơn nữa, Nghệ An lại có 82 km đường bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp như bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết (Nghi Lộc), Diễn Thành (Diễn Châu), các bãi ở Quỳnh Lưu... đã tạo nên những khu vực cảnh quan, những điểm nghỉ dưỡng biển đầy sức lôi cuốn. Đặc biệt, Nghệ An còn có khu di tích Kim Liên - Nam Đàn, quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch và nhân dân trong nước, quốc tế đến tham quan, chiêm ngưỡng. Chính vì vậy, trong quyết định số 97/2002/QĐ-TTG ngày 22/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010, Nghệ An được xác định là một trong 14 trọng điểm phát triển du lịch của cả nước. Nhận thức rõ những lợi thế và tiềm năng cho phát triển du lịch, năm 1996 Nghệ An đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1996- 2010, xác định phương hướng của Tỉnh là khai thác tài nguyên du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững và có hiệu quả với năm trung tâm du lịch làm hạt nhân: Khu du lịch Cửa Lò, du lịch thành phố Vinh, du lịch Nam Đàn, du lịch Vườn quốc gia Pù Mát và Khu du lịch sinh thái - văn hoá lịch sử Quỳ Châu- Quế Phong. Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI nhiệm kỳ 2006- 2010 về Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của Tỉnh cũng đã xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của Tỉnh; phát triển du lịch là một trong 9 chương trình, dự án trọng điểm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2006 - 2010. Phải khẳng định rằng, trong những năm qua du lịch Nghệ An đã có bước phát triển nhanh và ngày càng cho thấy đây là một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, đóng góp cho ngân sách địa phương ngày càng nhiều, góp phần đưa KT-XH của tỉnh từng bước được cải thiện. Du lịch phát triển thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân; nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt đã đóng góp không nhỏ vào việc hoàn thành các chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 của tỉnh. Tuy Nghệ An là tỉnh giàu tiềm năng du lịch cả về tự nhiên, xã hội và nhân văn, những năm qua du lịch đã có những bước phát triển nhưng kết quả đạt được lại chưa tương xứng với những tiềm năng đó. Tài nguyên du lịch Nghệ An đa dạng, phong phú nhưng không được quản lý, khai thác hợp lý để phát triển đa dạng các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá thiên nhiên... Lượng khách du lịch đến Nghệ An tăng nhanh nhưng chủ yếu là khách nội địa, tỷ trọng khách quốc tế rất thấp và chưa có những sản phẩm mang tính đặc thù. Kết cấu hạ tầng đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hệ thống đường giao thông chất lượng còn kém, mới chỉ tiếp cận đến một số khu, điểm du lịch; vấn đề nước sạch, điện, thông tin liên lạc phục vụ cho tiêu dùng chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là đối với các vùng có tiềm năng phát triển loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vùng miền núi, hải đảo. Việc đóng góp vào ngân sách của du lịch so với GDP của tỉnh còn thấp. Nghệ An vẫn là một trong những tỉnh có nguồn đầu tư cho du lịch chưa nhiều, điều kiện tự nhiên chưa được thuận lợi, nhận thức về phát triển du lịch còn hạn chế ... Vì vậy, Du lịch Nghệ An cần có bước phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có và sớm trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 đưa Nghệ An ra khỏi tỉnh nghèo. Mặt khác, Du lịch Nghệ An cần có sự đánh giá chân thực, khách quan về thực trạng của phát triển du lịch thời kỳ 2002-2007 để từ đó đề ra các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Nghệ An trong giai đoạn tiếp theo - thời kỳ 2008- 2020, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sớm đưa du lịch Nghệ An hội nhập với du lịch cả nước và quốc tế. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập” làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Là một đề tài nghiên cứu về thực trạng du lịch của Nghệ An vì vậy các công trình nghiên cứu có liên quan hầu hết là các văn bản - Quy hoạch phát triển du lịch Nghệ An 1996- 2010 (Viện Nghiên cứu phát triển du lịch- Tổng cục Du lịch); - Đề án phát triển du lịch Nghệ An 2002-2010 (UBND tỉnh Nghệ An); - Chương trình phát triển du lịch Nghệ An 2006- 2010 (UBND tỉnh Nghệ An); - Đề án phát triển du lịch miền Tây Nghệ An (UBND tỉnh Nghệ An); - Các nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương..., các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nghệ An đề cập nhiều đến việc xây dựng và phát triển du lịch. Những văn bản trên đóng góp một phần quan trọng trong việc bổ sung những kiến thức cho đề tài luận văn. 3. Mục đớch và nhiệm vụ của luận văn - Mục đớch: Trờn cơ sở lý luận về dịch vụ, du lịch, luận văn phõn tớch, đỏnh giỏ thực trạng phỏt triển du lịch của Nghệ An trong những năm qua và đề xuất một số giải phỏp nhằm phỏt triển du lịch Nghệ An một cách bền vững và có hiệu quả từ nay đến năm 2020. - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đề ra, luận văn cần giải quyết được những nhiệm vụ sau đây: + Làm rừ một số cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hội nhập hiện nay; + Phân tích, đỏnh giỏ đỳng thực trạng du lịch ở Nghệ An trong giai đoạn 2002 đến 2007 và xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết; + Trên cơ sở đó đưa ra những giải phỏp khả thi phỏt triển du lịch Nghệ An trong thời gian tới một cách bền vững, có hiệu quả, tạo hình ảnh Nghệ An là một điểm đến hấp dẫn của quốc gia. 4. Đối tượng, phạm vi nghiờn cứu - Đối tượng nghiờn cứu: Du lịch Nghệ An trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. - Thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2007, là những năm du lịch Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng phát triển trong hoàn cảnh chịu tác động ảnh hưởng của quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế . 5. Cơ sở lý luận và phương phỏp nghiờn cứu - Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận kinh tế chớnh trị của chủ nghĩa Mỏc-Lờ nin, tư tưởng Hồ Chớ Minh, cỏc quan điểm, chủ trương, đường lối, chớnh sỏch của Đảng, Nhà nước và tỉnh Nghệ An về phát triển kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng. - Phương phỏp nghiờn cứu: Để thực hiện được những nội dung, nhiệm vụ như trên luận văn sử dụng các phương phỏp nghiên cứu: + Phương pháp thống kờ + Phương pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu sẵn có + Phương pháp so sánh... 6. Những đúng gúp về khoa học và thực tiễn của luận văn - Đề tài đã làm rõ thực trạng phát triển du lịch Nghệ An trong giai đoạn hội nhập kinh tế thời kỳ 2002 - 2007, đưa ra những hạn chế, bất cập cần tháo gỡ và nguyên nhân của những khó khăn, bất cập - Từ nghiên cứu thực tiễn kinh nghiệm về phát triển dịch vụ du lịch ở một số địa phương trong nước như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tây và một số nước trong khu vực như Thái Lan, luận văn đã rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển du lịch theo hướng bền vững và có hiệu quả. Đây là những kinh nghiệm quý giá, có thể vận dụng vào điều kiện của Nghệ An. - Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tiễn phát triển du lịch tại Nghệ An, những kinh nghiệm, bài học đúc kết được từ các tỉnh thành khác trong nước và một số quốc gia trong khu vực, luận văn đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập 2008 -2020 một cách bền vững, chuyên nghiệp, góp phần phát huy giá trị, bảo tồn phát triển tài nguyên và nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của địa phương. - Ngoài ra công trình cũng gúp phần minh chứng sự cần thiết khỏch quan về vai trũ phỏt triển du lịch ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2008-2020; góp phần định hướng cho công tác nghiên cứu phục vụ sự nghiệp phát triển du lịch của Tỉnh. - Gúp vào danh mục tài liệu tham khảo phục vụ cụng tỏc chỉ đạo thực tiễn và giảng dạy, học tập ở cỏc cơ sở đào tạo của địa phương. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cấu trúc thành 03 chương với 9 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế Du lịch và đặc điểm của du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế Du lịch và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế 1.1.1.1. Bản chất và các hình thức biểu hiện của du lịch Từ xa xưa con người đã ước mơ được tìm hiểu những miền đất lạ, được thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, của các nền văn hóa khác nhau, qua đó mà tăng thêm tri thức, tình cảm và bồi dưỡng sức khỏe. Các loại hình du lịch đầu tiên như buôn bán, giải trí, du lịch thể thao đã xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại với sự ra đời của thế vận hội Olimpic năm 760 trước công nguyên. Du lịch nước khoáng thiên nhiên đã xuất hiện rất sớm và phổ biến ở nhiều nơi thuộcTrung Quốc, ấn Độ, La Mã... Hoạt động đó bắt nguồn từ nhu cầu tự nhiên của con người nhằm tránh sự đơn điệu, nhàm chán và mệt mỏi. Nó là một thuộc tính tâm lý, biểu hiện sự đòi hỏi tất yếu về tinh thần của con người, phản ánh mối liên hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội được nâng cao, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, thì giờ nhàn rỗi của họ ngày càng nhiều, thì nhu cầu du lịch của con người cũng không ngừng đổi thay và phát triển. Lúc đầu, hoạt động du ngoạn đó chỉ là hiện tượng từng cá thể rời khỏi nơi cư trú, nơi làm việc thường xuyên của mình trong một thời gian ngắn để nghỉ ngơi, giải trí hoặc thăm thú người thân ở trong một địa phương hay một vùng nhất định. Sau mở rộng thành nhu cầu của nhiều đối tượng dân cư với các chuyến du lịch thời gian dài hơn và không gian rộng hơn, vượt khỏi ranh giới của một quốc gia, một châu lục và được đánh dấu bằng tour du lịch lữ hành đầu tiên của Thomas Cook năm 1841. Việc đáp ứng các nhu cầu đi lại, nghỉ ngơi, tham quan, tìm hiểu... của du khách đã làm xuất hiện một dạng hoạt động độc lập trong hệ thống phân công lao động xã hội, một ngành kinh tế, đó là ngành kinh tế du lịch. Ngày nay du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trên thế giới và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội hiện đại. Đến những thập niên 50-60 của thế kỷ XX, du lịch quốc tế đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tương đối nhanh và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong làn sóng văn hoá- xã hội. Du lịch đang trở thành ngành công nhiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Du lịch không những mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà nó còn chứa đựng đầy bản sắc nhân văn. Du lịch chính là hộ chiếu đi đến hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch: Đầu tiên người ta hiểu du lịch là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ kiếm được ở nơi khác. Tại Khoản 1 Điều 4 Chương 1 Luật Du lịch của nước ta nêu rõ: ”Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định“ [17, tr.6]. Theo Tổ chức Du lịch thế giới (WTO): Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Vào đầu thế kỷ XX, hai giáo sư Thụy sĩ là Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho sự ra đời của lý thuyết du lịch hiện đại cho rằng: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương – những người không có mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ một hoạt động kiếm tiền nào [11, tr.23]. Trên cơ sở phân tích bản chất và thuộc tính của hoạt động du lịch các học giả Trung Quốc đưa ra định nghĩa:“Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, là sự tổng hoà các mối quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành tạo nên để thoả mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí và văn hoá nhưng lưu động chứ không định cư mà tạm thời cư trú của mọi người dẫn tới’’ [11, tr.24]. Về bản chất mà xét, du lịch là một phạm trù kinh tế, trước tiên phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó con người thưởng ngoạn vẻ đẹp của tự nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của bản thân. Song để đạt được mục đích đó, con người phải rời xa nơi cư trú thường xuyên của mình, từ đó mà nảy sinh ra mối quan hệ lợi ích giữa người sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Trong đó người tiêu dùng tối đa hoá lợi ích về vật chất và tinh thần, còn người kinh doanh tối đa hoá lợi nhuận dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường. Từ bản chất của hoạt động này với các nhu cầu ngày càng đa dạng của con người, nhất là trong giai đoạn phát triển cá tính trong tiêu dùng hiện nay, các nhà kinh doanh du lịch đã không ngừng đa dạng hóa các loại hình du lịch cho phù hợp theo từng lứa tuổi, sở thích, thị hiếu và cá tính của du khách nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích có thể khai thác trong kinh doanh du lịch. Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch, mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa nhất định. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà có thể sử dụng cách phân loại này hay cách phân loại khác. Dưới đây là một số loại hình chủ yếu: Một là, căn cứ vào tính chất của sản phẩm du lịch hay tài nguyên du lịch thì có loại hình du lịch sinh thái và du lịch văn hoá: Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Hai là, căn cứ vào nhu cầu và mục đích chuyến đi, du lịch được phân ra: du lịch nghỉ ngơi, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch chữa bệnh, du lịch thăm hỏi, du lịch tín ngưỡng,... Ba là, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ chuyến đi, du lịch được phân chia thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của du khách ở những quốc gia khác nhau, gồm du lịch quốc tế chủ động và thụ động. Du lịch quốc tế chủ động là việc nhận du khách quốc tế vào nước mình. Du lịch quốc tế thụ động là việc đưa du khách nước mình đến các nước khác. Còn du lịch nội địa thì ngược lại, khách du lịch nội địa chỉ đi và đến các điểm du lịch trong phạm vi nước mình. Bốn là, căn cứ vào thành phần xã hội của du khách có du lịch cao cấp, du lịch bình dân. Du lịch cao cấp là loại hình du lịch dành cho những người có khả năng thanh toán cao. ở thể loại này, các dịch vụ dành cho khách phải có chất lượng đặc biệt tốt và với mức giá cao. Còn du lịch bình dân là loại hình du lịch dành cho những người có khả năng thanh toán hạn chế, và do đó chất lượng dịch vụ ở loại hình này bình thường với mức giá thấp. Năm là, căn cứ vào phương tiện giao thông mà du khách sử dụng, du lịch được phân thành: du lịch xe đạp, du lịch mô tô, du lịch ô tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy, du lịch máy bay... Sáu là, căn cứ vào thời gian và hình thức đi của khách du lịch có du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày, du lịch cuối tuần, du lịch theo đoàn, du lịch cá nhân, du lịch gia đình,... Bảy là, căn cứ vào phương thức ký kết và thực hiện hợp đồng du lịch có loại hình du lịch trọn gói và du lịch từng phần. 1.1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế Thứ nhất là tài nguyên du lịch: Đây là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến phát triển du lịch của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nhất định: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Thứ hai là sản phẩm du lịch: Cũng giống như tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch là đối tượng hấp dẫn du khách, là nhân tố quyết định hoạt động du lịch có diễn ra hay không. Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Nếu xét về cơ cấu thì sản phẩm du lịch vô cùng phong phú và liên quan tới rất nhiều ngành nghề. Nhưng xét về mặt ý nghĩa của các bộ phận hợp thành có thể chia làm ba loại, đó là: sức thu hút khách du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển du lịch và hạt nhân của sản phẩm phần lớn là dịch vụ mà chất lượng chủ yếu phụ thuộc vào con người phục vụ. Cũng như sản phẩm dịch vụ, sản phẩm du lịch không mang hình thái vật thể độc lập, cụ thể ngay cả trong trường hợp nó có tính sản xuất vật chất, bao hàm trong nó con người, nơi chốn, hoạt động, tổ chức và ý tưởng. Tính phức tạp của sản phẩm dịch vụ là cần có sự tiếp xúc giữa người với người. Mối quan hệ người- người để tạo ra một sản phẩm (dịch vụ) có đặc điểm: cùng có mặt về không gian và thời gian, trao đổi thông tin lẫn nhau, nhận thức, đánh giá và lựa chọn lẫn nhau. Phần lớn sản phẩm tạo ra được khách hàng tiêu thụ ngay tại chỗ, tức là thời điểm sản xuất và tiêu thụ xảy ra liền kề nhau tại một địa điểm. Sản phẩm của các tổ chức kinh doanh du lịch cung cấp cho khách du lịch là các loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho hoạt động du lịch của du khách, do đó bị giới hạn bởi thời gian, không gian và đòi hỏi phải có chất lượng cao, không cho phép sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ không hoàn hảo vì không thể thay thế và đền bù được, cũng rất khó khăn lấy lại lòng tin của khách. Các sản phẩm dịch vụ, hàng hóa được sản xuất và bán cho khách theo những quy trình công nghệ khác nhau, do các bộ phận khác nhau cung cấp nên chất lượng khó đồng nhất nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phục vụ. Giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch là thoả mãn nhu cầu có tính da dạng của khách trong quá trình đi du lịch, trong đó có những nhu cầu như ăn, ở, đi lại, tham quan, tìm hiểu, mở rộng nhận thức, tăng cường giao lưu, được tôn trọng,... Chính vì vậy, giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch có tính đa chức năng. Sản phẩm du lịch là sự kết hợp của những sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần và dịch vụ nên giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch cũng trừu tượng, vô hình mà người ta khó có thể xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cố định và chỉ có thể đánh giá thông qua quá trình tiêu dùng, chưa tiêu dùng thì khó có thể hình dung được. Ví dụ: trong hoạt động hướng dẫn tham quan du lịch thì sản phẩm là các ấn tượng, khoái cảm và các rung động khác trong khách du lịch thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của họ; trong lưu trú và ăn uống là tạo ra và trao cho khách các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu đồng thời thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của khách du lịch. Dịch vụ mà khách nhận được là sự trao đổi chứ không phải là sở hữu, nó không bán hay giao qua cho một người thứ ba. Chất lượng dịch vụ còn gắn liền với đặc điểm tâm lý xã hội của người phục vụ và khách du lịch, vì thế nó không có tính lặp lại và ổn định. Mặt khác, dù có ý thức hoặc vô thức từ phía người làm du lịch, văn hóa đều phải xuyên suốt các mặt hoạt động của du lịch. Các nhu cầu du lịch đều chứa đựng đặc trưng văn hóa. Trong ăn uống, lưu trú, đi lại, mua sắm không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình thường mà còn là sự khám phá, thưởng thức, trải nghiệm; tham quan và vui chơi giải trí là nhu cầu đặc trưng của chuyến đi du lịch càng thể hiện rõ nét hơn tính văn hóa. Tất cả các dịch vụ, hàng hóa du lịch đáp ứng được các nhu cầu này có giá trị đối với khách du lịch ở chỗ nó thỏa mãn được các nhu cầu tìm đến cái mới, các khác biệt so với nơi ở thường ngày của du khách, giúp cho du khách tìm được các đáp ứng khát vọng hướng tới giá trị- chân- thiện, mỹ, ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển nền văn hóa nhân loại. Ngoài ra, cũng như dịch vụ, trong nhiều trường hợp, hoạt động du lịch sau khi đã được thực hiện thì các yếu tố cấu thành dịch vụ không mất đi mà vẫn còn nguyên vẹn. Nghĩa là quá trình tạo ra dịch vụ được lặp đi lặp lại nhiều lần: như các tài nguyên du lịch tự nhiên, di tích văn hóa lịch sử, các cơ sở lưu trú du lịch,... Những yếu tố cấu thành trên không phải là sản phẩm dự trữ của du lịch mà nó chỉ là tiềm năng tạo nên sản phẩm du lịch. Đặc điểm này cho thấy nếu dùng công cụ để điều tiết lượng cung ứng sản phẩm ra thị trường thì không thể có tác động nhanh chóng như đối với các hàng hóa khác. Thứ ba là kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch: Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ tới phát triển du lịch của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia DMTLTK.doc
Tài liệu liên quan