1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định đúng đối tượng chứng minh và chứng minh đầy đủ nó không những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn mà còn rút ngắn được thời gian, giảm chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tượng chứng minh của từng vụ án một cách chính xác nên dẫn đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: quy định của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh còn có những điểm bất cập, trình độ nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm của người tiến THTT nên việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong TTHS, đánh giá thực trạng quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh để từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Đối tượng chứng minh trong tố tụng hỡnh sự” cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Về “Đối tượng chứng minh trong TTHS” trong một số giáo trình luật TTHS của một số trường đại học cũng như một số khoá luận cử nhân luật đề cập đến dưới góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu cầu, mục đích của việc nghiên cứu không tập trung chính vào đối tượng chứng minh hay việc đề cập đến đối tượng chứng minh mới chỉ dừng ở việc phục vụ cho học tập cơ bản để hiểu về vấn đề nên việc nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hặn như: trong Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000, ở Chương III - Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm đối tượng chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh. Trong khoá luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài: “Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Phạm Thế Lực - K41B - Khoa Luật - Đại học QGHN, có đề cập đến: những vấn đề cần phải chứng minh trong TTHS Việt Nam. Trong khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: “Đối tượng chứng minh và phương tiện chứng minh trong vụ án giết người”của tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C - Khoa luật - ĐHQG Hà Nội, có đề cập đến: đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm, nội dung và phân loại đối tượng chứng minh - Nhưng việc nghiên cứu chưa thật sâu sắc và toàn diện. Trong luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tượng chứng minh - nhưng đây không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ của nó với các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án Như vậy, có thể nói rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về đối tượng chứng minh trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt về vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong TTHS là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta về đối tượng chứng minh có so sánh với quy định của luật TTHS một số nước trên thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến đối tượng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
ã Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong TTHS;
ã Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và luật TTHS của một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh;
ã Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh;
ã Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong TTHS. Nghiên cứu, so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và luật TTHS một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong TTHS một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học luật hình sự, tội phạm học và khoa học điều tra hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS Cộng hoà Pháp về đối tượng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS thực định và hoạt động chứng minh, giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan THTT cũng như các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong TTHS.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về đối tượng chứng minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến đối tượng chứng minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
7.Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham khảo, Luận văn gồm 3 chương với 8 mục.
115 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1647 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định đúng đối tượng chứng minh và chứng minh đầy đủ nó không những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn mà còn rút ngắn được thời gian, giảm chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tượng chứng minh của từng vụ án một cách chính xác nên dẫn đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: quy định của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh còn có những điểm bất cập, trình độ nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm của người tiến THTT… nên việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong TTHS, đánh giá thực trạng quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh để từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Đối tượng chứng minh trong tố tụng hỡnh sự” cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Về “Đối tượng chứng minh trong TTHS” trong một số giáo trình luật TTHS của một số trường đại học cũng như một số khoá luận cử nhân luật đề cập đến dưới góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu cầu, mục đích của việc nghiên cứu không tập trung chính vào đối tượng chứng minh hay việc đề cập đến đối tượng chứng minh mới chỉ dừng ở việc phục vụ cho học tập cơ bản để hiểu về vấn đề… nên việc nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hặn như: trong Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000, ở Chương III - Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm đối tượng chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh. Trong khoá luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài: “Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Phạm Thế Lực - K41B - Khoa Luật - Đại học QGHN, có đề cập đến: những vấn đề cần phải chứng minh trong TTHS Việt Nam. Trong khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: “Đối tượng chứng minh và phương tiện chứng minh trong vụ án giết người”của tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C - Khoa luật - ĐHQG Hà Nội, có đề cập đến: đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm, nội dung và phân loại đối tượng chứng minh - Nhưng việc nghiên cứu chưa thật sâu sắc và toàn diện. Trong luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tượng chứng minh - nhưng đây không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ của nó với các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án… Như vậy, có thể nói rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về đối tượng chứng minh trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt về vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong TTHS là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta về đối tượng chứng minh có so sánh với quy định của luật TTHS một số nước trên thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến đối tượng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong TTHS;
Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và luật TTHS của một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh;
Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh;
Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong TTHS. Nghiên cứu, so sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và luật TTHS một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong TTHS một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học luật hình sự, tội phạm học và khoa học điều tra hình sự. Nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga, BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS Cộng hoà Pháp về đối tượng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS thực định và hoạt động chứng minh, giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan THTT cũng như các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong TTHS.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về đối tượng chứng minh.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến đối tượng chứng minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
7.Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham khảo, Luận văn gồm 3 chương với 8 mục.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự
1.1- Chứng minh trong tố tụng hình sự
Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người. Hoạt động chứng minh của con người được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có những nét khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là việc chủ thể sử dụng những phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn như: giai đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra và truy tố; giai đoạn xét xử…ở mỗi giai đoạn có nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan THTT thực hiện. Quá trình này được bắt đầu từ việc cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về các sự kiện phạm tội (hoặc sự kiện có dấu hiệu của tội phạm) đã xảy ra trong đời sống xã hội, chính vì vậy, để giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề mang tính tất yếu và được pháp luật TTHS quy định là: các cơ quan THTT phải tiến hành chứng minh để làm rõ và khôi phục lại toàn bộ sự thật khách quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có liên quan đến vụ án.
Quá trình chứng minh khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án chính là quá trình nhận thức chân lý khách quan về vụ án. Cơ sở lý luận của hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin. Lý luận nhận thức Mác - Lênin khẳng định rằng: nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự việc và hiện tượng. Trong thế giới khách quan, không có cái gì là con người không thể nhận thức được, mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận thức được.
Như vậy, theo nguyên lý của lý luận nhận thức thì không có sự vật, hiện tượng gì mà con người không nhận thức được, vì thế không thể có tội phạm không bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có vận dụng một cách khách quan quy luật nhận thức trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án hay không. Trong thực tế tuy rằng không phải mọi tội phạm đều được phát hiện khám phá, nhưng điều đó không có ý nghĩa rằng vể bản chất của con đường nhận thức sự thật khách quan của vụ án là có giới hạn mà ở đây chỉ là do sự hạn chế về khả năng nhận thức của từng cá nhân và sự khó khăn về điều kiện nhận thức trong từng trường hợp cụ thể đó.
Nhưng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án hình sự không phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá trình nhận thức gián tiếp về vụ án. Bởi vì, khi đó sự việc phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra, vì vậy các cơ quan THTT phải nhận thức khôi phục lại nó thông qua việc phát hiện thu thập và đánh giá những dấu vết mà nó để lại trong hiện thực khách quan.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: thế giới thống nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới luôn có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tượng vật chất, V. I -Lênin viết: “Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm giác, đặc tính phản ánh”[8, tr 104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động của con người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết trong thế giới khách quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh ghi nhận trong trí nhớ của con người. Vì vậy, thông qua việc thu thập những dấu vết này một cách có hệ thống trong quá trình THTT sẽ đưa đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại được toàn bộ diễn biến của sự việc phạm tội. Quá trình thu thập những dấu vết của tội phạm và những thông tin có liên quan đến vụ án (thu thập chứng cứ) để nhận thức khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án - chính là quá trình chứng minh trong TTHS.
Hoạt động chứng minh trong TTHS do những chủ thể nhất định tiến hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ từ các nguồn khác nhau và sử dụng chứng cứ từ những nguồn này làm phương tiện chứng minh làm rõ các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Những vấn đề về chủ thể chứng minh, chứng cứ, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như trình tự thủ tục trong quá trình chứng minh đều được pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong lịch sử hoạt động tư pháp, ở những giai đoạn lịch sử nhất định tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng được tiến hành theo các kiểu khác nhau hoặc do quan điểm, cơ sở phương pháp luận dựa trên cơ sở các học thuyết khác nhau… nên pháp luật ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, ở các nước khác nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ, những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự có sự khác nhau.
1.1.1. Chủ thể chứng minh trong tố tụng hình sự
Chứng minh là hoạt động nhận thức chân lý khách quan của con người nên ở phương diện chung nhất con người là chủ thể của hoạt động chứng minh. Nhưng hoạt động chứng minh được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, mà trong từng lĩnh vực chứng minh khác nhau có một phạm vi những cá nhân con người cụ thể nhất định tham gia vào hoạt động chứng minh đó - tức là hoạt động chứng minh trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những chủ thể cụ thể khác nhau tiến hành hoạt động chứng minh đó.
Hoạt động chứng minh trong TTHS là hoạt động có mục đích làm sáng tỏ nội dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến vụ án, nên những những người tham gia vào hoạt động này là những chủ thể chứng minh trong TTHS. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ hoặc tuỳ thuộc vào quyền và lợi ích v.v… của các chủ thể có sự khác nhau nên mức độ tham gia cũng như giai đoạn tham gia vào hoạt động chứng minh của từng chủ thể có sự khác nhau.
Thông thường thì chủ thể chứng minh trong TTHS chủ yếu là các cơ quan THTT và người THTT. Theo luật TTHS Việt Nam thì đó là các cơ quan THTT và người THTT như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán…nhóm chủ thể này giữ vai trò chính trong hoạt động chứng minh toàn bộ nội dung của vụ án và những tình tiết có liên quan đến nội dung của vụ án và kết quả chứng minh của họ mang tính pháp lý cao. Tuy nhiên do chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể có sự khác nhau nên giai đoạn tham gia chứng minh cũng như phạm vi, mức độ chứng minh của họ cũng có sự khác nhau nhất định.
Theo luật TTHS Việt Nam thì các cơ quan Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân cũng được giao tiến hành một số hoạt động điều tra khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu TNHS trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển có thẩm quyền: đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong những trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, các cơ quan khác khi được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Như vậy những cơ quan này cũng là chủ thể chứng minh trong TTHS, nhưng phạm vi tham gia cũng như mức độ tham gia chứng minh của các cơ quan này chỉ ở một giới hạn và chừng mực nhất định mà không giống như các cơ quan THTT.
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là những chủ thể chứng minh trong TTHS. Mục đích tham gia chứng minh của họ là để bảo vệ quyền lợi của mình nên phạm vi tham gia và mức độ chứng minh của họ chủ yếu nhằm chứng minh họ không có tội hoặc chứng minh các tình tiết giảm nhẹ TNHS và giảm nhẹ mức bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan là chủ thể tham gia chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Sự tham gia của họ thường tập trung vào những việc họ bị tội phạm gây thiệt hại, mức độ thiệt hại để từ đó đưa ra yêu cầu bồi thường.
Bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan cũng là chủ thể tham gia chứng minh nhằm bác yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi liên quan nhằm giảm trách nhiệm, nghĩa vụ của họ.
Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tham gia chứng minh những tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự tức là chứng minh những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo hoặc đương sự.
Tuy người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩ vụ liên quan…là những chủ thể có quyền tham gia chứng minh nhưng không phải là vụ án nào cũng có tất cả những người tham gia mà tuỳ theo từng vụ án cụ thể có thể chỉ có một số người tham gia, cũng có thể có vụ án không có người nào trong số những người này tham gia chứng minh vì đó là quyền của họ. Mặt khác sự chứng minh của họ đôi khi vì những lý do cá nhân mà không thể hiện tính khách quan cao. Theo luật TTHS thường thì kết quả chứng minh của những người này chưa có giá trị pháp lý chính thức mà vẫn phải thông qua sự đánh giá, kết luận của các cơ quan THTT.
Ngoài ra, trong TTHS còn có sự tham gia của người làm chứng, người phiên dịch và đôi khi còn có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, cá nhân khác. Sự tham gia của những người này nhằm cung cấp những tài liệu, chứng cứ phục vụ cho quá trình chứng minh. Những người này không phải chủ thể chứng minh bởi vì họ không có mục đích trực tiếp nhằm chứng minh nội dung vụ án và các tình tiết liên quan đến vụ án. Họ cũng chỉ tham gia tố tụng khi được các cơ quan THTT yêu cầu.
1.1.2. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự
Như chúng ta đã biết có rất nhiều chủ thể chứng minh trong TTHS. Nhưng trong số những chủ thể đó, có những chủ thể thì việc tham gia chứng minh là quyền của họ nên họ có thể thực hiện quyền đó hoặc không thực hiện quyền đó. Ngược lại có những chủ thể luật TTHS quy định họ có nghĩa vụ phải chứng minh - tức là họ bắt buộc phải tham gia vào hoạt động chứng minh. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng được tiến hành theo các kiểu khác nhau hoặc cơ sở, phương pháp luận dựa trên các học thuyết khác nhau nên luật TTHS ở các nước khác nhau, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau quy định về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh có sự khác nhau.
Với hình thức tố tụng kiểu tố cáo, Luật La Mã quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về người tố cáo. Ngoài việc tố cáo, người tố cáo còn đưa ra những chứng cứ liên quan đến việc tố cáo ấy, vì vậy lời tố cáo của một người nào đó về tội phạm vừa là căn cứ xuất hiện trình tự để giải quyết vụ án, vừa là căn cứ buộc tội đối với người bị tố cáo. Khi hình thức tố tụng kiểu thấm vấn ra đời thay thế hình thức tố tụng kiểu tố các thì Biện lý xuất hiện. Biện lý là người đại diện cho quyền lực nhà Vua có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ và duy trì sự buộc tội trước toà án. Hình thức tố tụng kiểu thẩm vấn phát triển mạnh ở Pháp vào thế kỷ XIV, ở Đức thế kỷ XVI. Khoảng đầu thế kỷ XVIII ở nước Nga xuất hiện Cơ quan công tố, cơ quan này chịu trách nhiệm chứng minh hầu hết các vụ án hình sự, chỉ trừ một phạm vi rất nhỏ những vụ án tư tố mà ở đó người bị hại có nghĩa vụ chứng minh tính có căn cứ của sự việc mà họ tố cáo. Ngày nay trong luật TTHS của các nước tư bản, nghĩa vụ chứng minh là do Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố thực hiện, có nước còn do Thẩm phán thực hiện như ở Italia. Tuy nhiên ở các nước tư bản Luật sư cũng có quyền thu thập chứng cứ, trách nhiệm của Luật sư là tìm kiếm, thu thập những bằng chứng ngoại phạm, những chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can và chuẩn bị thẩm tra nhân chứng trước toà.
Trong hệ thống pháp luật XHCN, luật TTHS quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan THTT, cụ thể, tại Điều 11 BLTTHS năm 1988 và Điều 10 BLTTHS năm 2003 của nước ta quy định: “… Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Việc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan THTT, bởi lẽ: quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội, nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quy định hành vi nào là tội phạm, đồng thời buộc người có hành vi phạm tội phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án, Quyết định của Toà án hoặc các Quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Để truy cứu trách nhiệm hình sự một người, nhà nước phải có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm tội, nếu không đủ chứng cứ thì không thể buộc tội và truy cứu TNHS họ. Vì vậy, để có chứng cứ chứng minh hành vi của người nào đó là tội phạm, nhà nước thành lập ra các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm. ở nước ta, các cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ chứng minh mình vô tội hoặc có quyền đưa ra các tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với họ, nhưng đây không phải là nghĩa vụ của họ.
Để làm sáng tỏ vụ án hình sự, ngoài nghĩa vụ chứng minh của các cơ quan THTT, thì đòi hỏi có sự tham gia tích cực của những người tham gia tố tụng và các chủ thể khác. Tuy nhiên sự tham gia của các chủ thể này không phải là họ có trách nhiệm chứng minh vụ án mà là họ có trách nhiệm cung cấp những tài liệu, thông tin liên quan đến vụ án và cơ quan THTT có thể sử dụng những tài liệu, thông tin này làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.3. Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự
ở phương diện chung nhất thì toàn bộ thực tiễn khách quan là đối tượng của nhận thức nhằm tìm ra những quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhưng ở giai đoạn lịch sử cụ thể thì đối tượng của nhận thức lại có phạm vi nhất định. Mặt khác, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng lĩnh vực hoạt động nhận thức cụ thể mà trong mỗi lĩnh vực của hoạt động nhận thức lại có đối tượng nhận thức riêng. Hoạt động chứng minh trong TTHS chính là quá trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan đến vụ án. Suy cho cùng mục đích của hoạt động chứng minh trong TTHS là để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy, đối tượng chứng minh trong TTHS là tổng hợp những vấn đề chưa biết nhưng các cơ quan THTT cần phải biết để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm và những vấn đề này được luật TTHS quy định các cơ quan THTT phải chứng minh làm rõ.
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau nên đối tượng chứng minh ở mỗi vụ án có những phạm vi và yêu cầu khác khác nhau. Tuy vậy, tội phạm đều có những đặc điểm, quy luật chung giống nhau và được khái quát thành những vấn đề chung nhất mà những vấn đề này đươc luật TTHS quy định một cách trực tiếp cụ thể hoặc quy định một cách gián tiếp và thường phải chứng minh trong bất kỳ vụ án nào.Chẳng hạn luật TTHS Việt Nam quy định phải chứng minh: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hàng vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào tính chất, hoàn cảnh của từng vụ án cụ thể mà có thể có những vấn đề không cần phải chứng minh vì nó rõ ràng là đã không xảy ra trong vụ án đó. Ví dụ: trong vụ án mà người phạm tội mới có hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt ngh