Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25, tr. 112].
Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 - CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
108 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25, tr. 112].
Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 - CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Để góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm và nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tôi đã chọn đề tài : "Đội ngũ trớ thức thuộc Liờn hiệp cỏc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp cụng nghiệp húa, hiện đại húa ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần nghiên cứu tham khảo và kế thừa:
- "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995) - Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của Đỗ Mười về trí thức. Qua đó đã khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước.
- "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" (1995) - Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện đại về "trí thức", trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của thế kỷ 20. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (2001) - GS. Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010.
- "Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước" (1998) - PTS. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
- "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam" (1998) - Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội; làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế - xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.
Một số bài viết về trí thức như: "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh Khôi... Trong đó, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức...
Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như: "Vị trí và vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam" của Phạm Việt Dũng, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; "Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay " của Phan Thanh Khôi, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992; "Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của Trịnh Quang Cảnh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004...
Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí liên quan ít nhiều đến trí thức, đến khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH.
Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu nào đề cập đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam dưới góc độ luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, đề tài nghiên cứu của tôi không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng chung của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Luận văn nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Trình bày một cách khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phân tích những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, nhất là đặc điểm, vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở Trung ương. Thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), và nhất là từ khi có Chỉ thị 45-CT/TW (1998) cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng ta về trí thức. Luận văn cũng kế thừa các nhân tố hợp lý của những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử,...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
- Làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn lý luận chính trị Mác - Lênin.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam hiện nay
1.1. khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
Trí thức ở nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Một số được đào tạo từ trước cách mạng Tháng Tám, số lượng này đến nay không nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cử một số cán bộ đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau này. Còn lại, phần lớn trí thức nước ta được đào tạo ở các nước XHCN trước đây và trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập với quốc tế, cơ hội học tập và nghiên cứu tại các nước trên thế giới được mở rộng. Vì vậy số lượng sinh viên Việt Nam đi du học ngày càng nhiều, lực lượng này đã bổ sung và làm phong phú hơn nguồn đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam.
Hiện nay, nước ta có hơn 1,8 triệu người đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, về cơ bản có thể xem đây là trí thức. Năm 2000 nước ta mới có 1,3 triệu trí thức, sau ba năm (từ năm 2000 đến năm 2003) số lượng trí thức tăng lên thành 1.870.315 người [70, tr. 149]. Điều đó cho thấy, ngành GD&ĐT nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức Việt Nam còn bổ sung từ những người tự học vươn lên để có học vấn tương đương và trong thực tế có những đóng góp nhất định cho khoa học nước ta.
Bên cạnh đó, còn hơn 300.000 trí thức Việt Kiều - một bộ phận của trí thức dân tộc Việt Nam. Phần lớn họ đang sinh sống ở các nước phát triển, được tiếp cận với tri thức KH&CN hiện đại của thế giới. Trong đó, có nhiều người có trình độ cao, hiện đang làm việc tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn trên thế giới.
Ngoài ra, nước ta có một số lượng khá đông sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học trên toàn quốc. Sinh viên chính là nguồn bổ sung vào lực lượng trí thức trong tương lai. Chính vì vậy, thông qua phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học, đã có một số lượng công trình của đội ngũ này được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội không nhỏ.
Số lượng trí thức tăng lên trong những năm qua là thành quả to lớn của sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, so với số dân hiện nay của nước ta với khoảng hơn 80 triệu người, tỷ lệ trí thức trong tổng số dân còn rất thấp, chiếm khoảng hơn 2% dân số của cả nước.
Về trình độ, trong số 1,8 triệu người tốt nghiệp cao đẳng, đại học; có hơn 25.000 thạc sĩ, tiến sĩ; 5531 giáo sư, phó giáo sư và 519 tiến sĩ khoa học [70, tr. 149]. Trong ba năm (từ năm 2000 - 2003) trình độ của đội ngũ trí thức ở nước ta không ngừng được nâng cao. Năm 2000, nước ta mới chỉ có 10.000 thạc sĩ, 13.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, số người được phong hàm giáo sư là 927, phó giáo sư là 3.419 người [3, tr. 18].
Đội ngũ trí thức ở nước ta có tiềm năng trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất thông qua sản phẩm tinh thần của đội ngũ này. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được bạn bè, đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao và có nhiều công trình được ứng dụng đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước.
Ngoài ra, số lượng các công trình đạt những giải thưởng lớn và có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, Văn học và Nghệ thuật và gần đây là Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam đã phần nào chứng minh chất lượng cũng như sức sáng tạo không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta.
Đội ngũ trí thức nước ta có lòng yêu nước và gắn bó với nhân dân lao động, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự đóng góp to lớn của đội ngũ này vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đội ngũ trí thức ngành khoa học xã hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong khoa học tự nhiên, các kết quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần cung cấp những luận cứ cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ những công nghệ mới như chế tạo vật liệu, những tiến bộ về di truyền học, sinh học, khoa học thông tin...
Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chủ yếu hướng hoạt động nghiên cứu của mình vào đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả của sản xuất. Do đó, đã có nhiều thành tựu về khoa học công nghệ mới được ứng dụng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đặc biệt trong nông nghiệp với việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, công nghệ sinh học, di truyền... đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ đã có những cống hiến to lớn cho nền công nghiệp Việt Nam: tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam đã tạo cơ sở để nền công nghiệp nước ta có bước phát triển mạnh, chuyển dần theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt có nhiều lĩnh vực đã bước đầu tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ laser, công nghệ xây dựng cầu, chế tạo thiết bị bưu chính viễn thông, công nghệ gen, công nghệ sinh học...
Như vậy, với những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước đã thể hiện tiềm năng trí tuệ to lớn đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố vững chắc hơn khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức.
Tuy nhiên, Đội ngũ trí thức của nước ta còn có những hạn chế, trình độ của đội ngũ trí thức chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ yếu là tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Đội ngũ trí thức có trình độ sau đại học ở nước ta hiện nay có khoảng hơn 30.000 người (chiếm hơn 1,6% tổng số trí thức Việt Nam).
Về cơ cấu lứa tuổi, tuổi bình quân của cán bộ khoa học công nghệ nước ta hiện nay là 40,2 (nam: 42,7 tuổi, nữ: 37,0 tuổi). Số trí thức có trình độ sau đại học tuổi khá cao, cụ thể: tuổi bình quân của người có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi; đại học: 40,9 tuổi; thạc sĩ: 42,6 tuổi và tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa học công nghệ ở độ tuổi dưới 25 chỉ chiếm 9,06%, trong khi số cán bộ này ở độ tuổi trên 55 lên tới 13,55% [3, tr.19]. Đặc biệt, số trí thức có trình độ cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và cán bộ đầu ngành có tuổi rất cao. Sự chênh lệch về độ tuổi giữa các trình độ là khá cao, phản ánh sự thiếu hụt lực lượng của đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao trong việc kế cận các thế hệ trí thức cha anh.
Về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức, trong số 23 ngành đào tạo, giáo viên chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số trí thức KH&CN (34,6%), tiếp theo là ngành kinh doanh và quản lý (19,3%), thứ ba là ngành kỹ thuật (8,1%), ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm vị trí thứ bảy (4,41%), còn ngành chế tạo - chế biến ở vị trí thứ 17 (0,52%) [3, tr. 19]. Qua đó cho thấy, cơ cấu ngành của đội ngũ trí thức nước ta còn bất hợp lý, phần lớn là trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các ngành thuộc khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ rất thấp. Chính vì vậy, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, nhưng với số lượng cán bộ có trình độ đại học thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 4,41%. Do đó khó đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện CNH, HĐH thì cần tăng số lượng trí thức trong các ngành kỹ thuật, nhất là một số ngành công nghệ mới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học…
Mặt khác, nếu theo các cấp đào tạo thì một số ngành có số lượng trí thức ít nhưng trình độ của đội ngũ này lại cao hơn những ngành khác. Số người có trình độ sau đại học chủ yếu ở các ngành Kinh doanh và quản lý, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Y tế. (Xem bảng 1).
Bảng 1.1: Cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ và thứ tự xếp hạng các ngành đào tạo theo các cấp đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.
STT
Ngành đào tạo
Đại học
Thạc sĩ
Tiến sĩ
Cơ cấu (%)
Thứ hạng
Cơ cấu (%)
Thứ hạng
Cơ cấu (%)
Thứ hạng
1
Khoa học tự nhiên
2,6
10
6,4
7
15,9
1
2
Kỹ thuật
9,3
3
7,3
6
14,7
2
3
Kinhdoanh và quản lý
25,3
1
15,3
1
10,3
3
4
Nhân văn
6,1
5
11,9
3
10,2
4
5
Y tế
7,5
4
14,7
2
8,4
5
6
Nông, Lâm, Ngư nghiệp
5,9
7
4,8
8
7,6
6
7
Khoa học sự sống
0,5
21
2,3
11
7,0
7
8
Khoa học xã hội và Hành vi
4,3
8
9,8
4
6,0
8
9
Toán và thống kê
0,9
15
3,7
10
5,8
9
10
Xây dựng và Kiến trúc
6,0
6
4,5
9
3,9
10
11
Khoa học GD&ĐT
17,2
2
7,7
5
2,7
11
Nguồn :[3, tr. 21].
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đồng bằng. Theo số liệu thống kê về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, số trí thức tập trung nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng (chiếm 33,95% tổng số người tốt nghiệp cao đẳng, đại học của cả nước), thứ hai là vùng Đông Nam Bộ (23,12%), tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (10,55%), Đông Bắc (9,41%), Bắc Trung Bộ (8,19%), Duyên hải Nam Trung Bộ (9,18%), Tây Nguyên (3,83%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (1,77%) [70, tr. 135]. Sự phân bố trí thức không đồng đều giữa các vùng là một trong những yếu tố làm chậm quá trình thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước. Trong khi các vùng đồng bằng có điều kiện thuận lợi và tiềm năng trí tuệ lớn có tốc độ phát triển, thì ngược lại ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện khó khăn thì lại càng ít cơ hội vươn lên phát triển do nguồn lực trí tuệ tập trung không nhiều.
Nhìn chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn khó khăn, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam những năm qua là một thành quả đáng tự hào. Trước những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta, cần phải khắc phục những hạn chế trên, nhất là về trình độ, số lượng, độ tuổi. Đồng thời cũng cần cân đối lại cơ cấu ngành nghề và sự phân bố đội ngũ trí thức giữa các vùng, miền của cả nước.
1.1.2. Trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nước ta tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện thế giới có nhiều sự biến động. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại một mặt tạo ra những thời cơ, tiền đề thuận lợi để đất nước ta phát triển, mặt khác nó cũng đem lại nhiều thách thức to lớn, nhất là trong điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn lạc hậu. Chính vì vậy, CNH, HĐH đất nước được Đảng ta coi là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ này là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Nhằm cụ thể hóa tinh thần của Đại hội, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [19, tr. 65].
Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH đất nước là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao dựa trên nền tảng của KH&CN.
Cũng chính tại Hội nghị này, Đảng ta đã nêu ra quan điểm chỉ đạo đối với quá trình CNH, HĐH như sau:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn.
Trên cơ sở tổng kết mười năm đổi mới và năm năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII), trước bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng một lần nữa đã xác định: nước ta đang đứng trước thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Tiếp tục khẳng định đường lối mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định:
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần có và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi