Luận văn Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Hoạt động cấp nước là hoạt động có liên quan đến cả ba khâu sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch. Nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ của mọi tầng lớp dân cư. Trong thời gian qua, hoạt động cấp nước nhất là cấp nước đô thị luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các cấp bộ ngành và các nhà tài trợ quốc tế. Đặc biệt, ngày 11/7/2007 Chính phủ ban hành nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung ứng và tiêu thụ nước sạch là cơ sở cho tổ chức, quản lý cấp nước đô thị.

Sau gần 20 năm đổi mới, tốc độ đô thị hoá của cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá nói riêng phát triển rất nhanh. Năm 1989, dân số thành thị Thanh Hoá mới có 215,5 ngàn người bằng 7,2% tổng số dân (2,99 triệu người), thì năm 2006 có 360,3 ngàn người bằng 9,8 % tổng số dân (3.68 triệu người) tăng 144,8 ngàn người, như vậy tăng 67,2% so với năm 1989. Đây là một áp lực đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

Tính đến nay, Thanh Hoá đã có 18 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư khoảng 314 tỷ đồng, nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010 trong đó có cấp nước. Tổng công suất cấp nước đô thị hiện nay là 65.410 m3/ngày, bảo đảm khoảng 90% dân số đô thị được cấp nước sạch với mức 89lít /người/ngày, tỷ lệ thất thoát nước sạch đã giảm xuống 30% so với 48% năm 1999. Đã có 15 trong tổng số 30 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung với quy mô từ 500 - 2000m3/ngày được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn, nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngân sách.

Những thành quả trên, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành có liên quan và công ty cấp nước Thanh Hoá đã nói lên tầm quan trọng cũng như mức độ cấp thiết của nước sạch đô thị trong chiến lược chung nhằm phát triển kinh tế xã hội, bảo vệc sức khoẻ cộng đồng, từng bước nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, hoạt động cấp nước có những điều kiện đặc thù, bởi nước sạch đô thị là hàng hoá cá nhân được cung ứng công cộng, cần được đầu tư vốn lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, do đó việc xã hội hoá hoạt động cấp nước gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gia tăng dân số đô thị ngày càng cao đã tạo những áp lực rất lớn cho hoạt động cấp nước sạch đô thị cả về số lượng và chất lượng.

Sự phát triển của ngành cấp nước đô thị Thanh Hoá trong thời gian qua chưa theo kịp với tốc độ đô thị hoá, chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và dân sinh. Nhiều dự án cấp nước ở các thị trấn đầu tư không đồng bộ, đầu tư theo kiểu phong trào, quy hoạch không hợp lý, hiệu suất thấp và năng lực quản lý kỹ thuật yếu kém. Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan. Trong đó có vấn đề nổi cộm như: cơ chế chính sách chưa phù hợp, phân cấp quản lý còn chồng chéo, mâu thuẫn; còn bất cập nhất là về giá nước; thất thu thất thoát còn lớn , trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu, tổ chức mô hình cấp nước chưa phù hợp. Thực hiện Nghị định 117/CP, tính khả thi còn nhiều điều phải xem xét lại như: quy hoạch cấp nước đô thị có đảm bảo 5 năm, 10 năm, dài hạn là 20 năm sao cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển ngành. Hoặc UBND tỉnh chỉ đạo việc chuyển giao các công trình cấp nước tại các thị trấn huyện (đầu tư từ nguồn vốn nhà nước) cho công ty cấp nước tỉnh quản lý. Theo đó, đánh giá tài sản nhất là đối với hệ thống ống nằm trong lòng đất đúng giá trị thực để bàn giao là điều không dễ. Hiện tại quyền sở hữu tài sản còn chưa rõ ràng, các công ty cấp nước, UBND tỉnh, thậm chí cả Chính phủ có thể giữ quyền sở hữu các phần tài sản khác nhau, tuỳ thuộc vào nguồn tài chính tạo nên tài sản lúc đầu. Sẽ không phải là vấn đề lớn, như hiện nay khi các công ty cấp nước do UBND tỉnh làm chủ sở hữu, nhưng nó sẽ là vấn đề quan trọng khi thực hiện cổ phần hoá công ty cấp nước và hoạt động của công ty cấp nước ngày càng đi theo định hướng thương mại.

Tất cả những lý do trên đặt ra yêu cầu cần đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị tỉnh Thanh Hóa, đó là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn.

Là người tham gia quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp, trong đó có tham mưu xây dựng giá nước sạch và đánh giá lại tài sản các công trình cấp nước tại các thị trấn sắp tới, tác giả chọn đề tài "Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế.

 

doc118 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động cấp nước là hoạt động có liên quan đến cả ba khâu sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch. Nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ của mọi tầng lớp dân cư. Trong thời gian qua, hoạt động cấp nước nhất là cấp nước đô thị luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các cấp bộ ngành và các nhà tài trợ quốc tế. Đặc biệt, ngày 11/7/2007 Chính phủ ban hành nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung ứng và tiêu thụ nước sạch là cơ sở cho tổ chức, quản lý cấp nước đô thị. Sau gần 20 năm đổi mới, tốc độ đô thị hoá của cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá nói riêng phát triển rất nhanh. Năm 1989, dân số thành thị Thanh Hoá mới có 215,5 ngàn người bằng 7,2% tổng số dân (2,99 triệu người), thì năm 2006 có 360,3 ngàn người bằng 9,8 % tổng số dân (3.68 triệu người) tăng 144,8 ngàn người, như vậy tăng 67,2% so với năm 1989. Đây là một áp lực đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Tính đến nay, Thanh Hoá đã có 18 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư khoảng 314 tỷ đồng, nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010 trong đó có cấp nước. Tổng công suất cấp nước đô thị hiện nay là 65.410 m3/ngày, bảo đảm khoảng 90% dân số đô thị được cấp nước sạch với mức 89lít /người/ngày, tỷ lệ thất thoát nước sạch đã giảm xuống 30% so với 48% năm 1999. Đã có 15 trong tổng số 30 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung với quy mô từ 500 - 2000m3/ngày được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn, nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngân sách. Những thành quả trên, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành có liên quan và công ty cấp nước Thanh Hoá đã nói lên tầm quan trọng cũng như mức độ cấp thiết của nước sạch đô thị trong chiến lược chung nhằm phát triển kinh tế xã hội, bảo vệc sức khoẻ cộng đồng, từng bước nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, hoạt động cấp nước có những điều kiện đặc thù, bởi nước sạch đô thị là hàng hoá cá nhân được cung ứng công cộng, cần được đầu tư vốn lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, do đó việc xã hội hoá hoạt động cấp nước gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gia tăng dân số đô thị ngày càng cao đã tạo những áp lực rất lớn cho hoạt động cấp nước sạch đô thị cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành cấp nước đô thị Thanh Hoá trong thời gian qua chưa theo kịp với tốc độ đô thị hoá, chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và dân sinh. Nhiều dự án cấp nước ở các thị trấn đầu tư không đồng bộ, đầu tư theo kiểu phong trào, quy hoạch không hợp lý, hiệu suất thấp và năng lực quản lý kỹ thuật yếu kém. Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan. Trong đó có vấn đề nổi cộm như: cơ chế chính sách chưa phù hợp, phân cấp quản lý còn chồng chéo, mâu thuẫn; còn bất cập nhất là về giá nước; thất thu thất thoát còn lớn , trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu, tổ chức mô hình cấp nước chưa phù hợp. Thực hiện Nghị định 117/CP, tính khả thi còn nhiều điều phải xem xét lại như: quy hoạch cấp nước đô thị có đảm bảo 5 năm, 10 năm, dài hạn là 20 năm sao cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển ngành. Hoặc UBND tỉnh chỉ đạo việc chuyển giao các công trình cấp nước tại các thị trấn huyện (đầu tư từ nguồn vốn nhà nước) cho công ty cấp nước tỉnh quản lý. Theo đó, đánh giá tài sản nhất là đối với hệ thống ống nằm trong lòng đất đúng giá trị thực để bàn giao là điều không dễ. Hiện tại quyền sở hữu tài sản còn chưa rõ ràng, các công ty cấp nước, UBND tỉnh, thậm chí cả Chính phủ có thể giữ quyền sở hữu các phần tài sản khác nhau, tuỳ thuộc vào nguồn tài chính tạo nên tài sản lúc đầu. Sẽ không phải là vấn đề lớn, như hiện nay khi các công ty cấp nước do UBND tỉnh làm chủ sở hữu, nhưng nó sẽ là vấn đề quan trọng khi thực hiện cổ phần hoá công ty cấp nước và hoạt động của công ty cấp nước ngày càng đi theo định hướng thương mại. Tất cả những lý do trên đặt ra yêu cầu cần đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị tỉnh Thanh Hóa, đó là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn. Là người tham gia quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp, trong đó có tham mưu xây dựng giá nước sạch và đánh giá lại tài sản các công trình cấp nước tại các thị trấn sắp tới, tác giả chọn đề tài "Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đụ thị trờn địa bàn tỉnh Thanh Hoỏ" làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quản lý hoạt động cấp nước đô thị thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tổ chức; ở nước ta đã có một số công trình, đề tài khoa học được công bố liên quan đến hoạt động cấp nước đô thị. Có thể nêu một số công trình, đề tài chủ yếu như sau: - Arjun Thapan - Ngân hàng phát triển Châu á (2002), Đổi mới cơ chế, chính sách cho ngành cấp nước và về sinh đô thị Việt Nam trên quan điểm của Ngân hàng Châu á, Tham luận hội thảo. - Bộ Xây dựng (2003) Đề tài khoa học, Điều tra đánh giá thực trạng tình hình quản lý chi phí nước sạch của một số đô thị lớn Việt Nam. - Bộ Xây dựng (Vụ tổ chức cán bộ-2005) Dự án, Điều tra đánh giá thực trạng và tổ chức năng lực của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước phục vụ việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp. - Bộ Xây dựng (2003), Báo cáo về Thực trạng quản ký Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Bùi Đức Hưng (2006), Luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Đổi mới quản lý nhà nước đối với lĩnh vực cấp nước đô thị ở Việt Nam. - Công ty cấp nước Thanh Hoá (2002), Phương án Quản lý hệ thống cấp nước sạch tại các huyện lỵ trong tỉnh. - Công ty Nước và môi trường Việt Nam (2003), Dự án cải tạo, nâng công suất nhà máy nước Mật sơn - Thanh Hoá từ 20.000m3/ngày,đêm lên 30.000m3/ngày, đêm (Nghiên cứu khả thi). - Đinh Tiến Dũng (2001), Thực trạng và tình hình giá tiêu thụ nước sạch hiện nay, Tham luận hội nghị cấp nước toàn quốc lần thứ IV. - Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý sản phẩm công ích cấp nước, thoát nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế. - Thanh Hà (2006), Hệ thống cấp nước đô thị: Cần một mô hình quản lý tổng hợp, vietnamnet. Vn. - Hồ Xuân Hùng (2002), Đổi mới cơ chế quản lý giá bán nước sạch để công ty cấp nước chuyển sang kinh doanh, Tham luận hội thảo. - Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2003), Đổi mới tổ chức và phát triển nguồn nhân lực ngành cấp nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế. - Iize Gotelli- Chuyên gia thể chế ADB (2002), Đổi mới và quy định cho ngành nước, Tham luận hội thảo. - Lê Quang Vinh (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý cấp nước, Tham luận hội thảo. - Nghiên cứu mô hình quy hoạch và quản lý hiệu quả hệ thống cấp nước đô thị Việt Nam, Vietnam/ Management. - Nguyễn Văn Tình (2001), Tiếp tục hoàn thiện về quản lý và tổ chức nâng cao hiệu quả cấp nước đô thị, Tham luận hội thảo. - Trần văn Tá (2002), Đề xuất một số cơ chế, chính sách tài chính nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của các doanh nghiệp cấp nước theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá IX , Tham luận hội thảo. Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến đổi mới cơ chế quản lý một số khía cạnh hoặc là cơ chế quản lý nói chung, hoặc là quản lý nhà nước ở tầm quốc gia với nhiều cách tiếp cận lý giải khác nhau. Đối với tỉnh Thanh Hoá đã có một phương án tổ chức hoạt động cấp nước; nội dung chủ yếu phản ánh tình hình thực hiện các dự án và vận hành cấp nước ở các huyện thị hiện nay, đề xuất mô hình tổ chức và định hướng phát triển của công ty cấp nước Thanh Hoá đến năm 2020. Mặc dù các công trình nghiên cứu về hoạt động cấp nước đô thị trong và ngoài nước khá đa dạng, nhiều cách tiếp cận, nhưng nội dung quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, hiện chưa có công trình khoa học nào dưới dạng luận án, luận văn từ thạc sỹ trở lên được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá đúng thực trạng, đề xuất giải pháp đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới. - Nhiệm vụ: + Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động cấp nước đô thị. + Phân tích thực trạng quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị ở Thanh Hoá, rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân. + Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị mà trọng tâm là nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, chủ yếu là quy hoạch, đầu tư phát triển, quản lý vận hành, bán nước sạch và sử dụng nước. Các vấn đề khác có đề cập chỉ để đảm bảo tính hệ thống của đề tài nghiên cứu. Thời gian: Khảo sát thực trạng từ 2002-2007; đề xuất giải pháp đến 2015 và một số giải pháp dài hạn cho những năm tiếp theo. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu, trong đó, chủ yếu dùng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, coi trọng mối liên hệ giữa lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng, tri thức khoa học kinh tế và kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp thống kê, so sánh, điều tra mẫu, ý kiến chuyên gia có đối chiếu quy trình, quy phạm, kinh nghiệm ở các địa phương trong nước và thế giới; phân tích so sánh kế thừa số liệu của các công trình, dự án, tài liệu khoa học của các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn - Hệ thống hoá có bổ sung làm rõ cơ sở lý luận về nước sạch, quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị. - Đánh giá đúng thực trạng, đề xuất hệ thống giải pháp có căn cứ khoa học, có tính thực tiễn và khả thi nhằm tiếp tục đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. - Là tài liệu tham khảo cho các ngành, các cấp tỉnh Thanh Hoá nghiên cứu các vần đề có liên quan đến hoạt động cấp nước đô thị. - Là tài liệu tham khảo giúp lãnh đạo Công ty cấp nước Thanh Hoá hoạch định đúng hướng, hiệu quả để phát triển doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị 1.1. một số vấn đề chung về nước sạch và hoạt động cấp nước sạch đô thị 1.1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn nước sạch * Khái niệm nước sạch: Nước sạch là khái niệm chung cho các loại nước dùng trong sinh hoạt, công nghiệp, công cộng... Theo nghị định 117/2007/NĐ-CP đưa ra khái niệm: nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng đảm bảo, đáp ứng yêu cầu sử dụng. * Phân loại nước sạch: Có nhiều loại nước sạch với những tiêu chuẩn tuỳ thuộc vào lĩnh vực sử dụng. - Việc phân loại nước sạch tùy thuộc vào quan điểm của các quốc gia cũng như xây dựng tiêu chuẩn đánh giá riêng biệt. Thông thường, nói đến nước sạch sẽ được hiểu là nước sạch dùng cho sinh hoạt và ăn uống. - Nước sạch trong các lĩnh vực cá biệt như y tế, hoá học được xây dựng theo chuẩn riêng khác với nước sạch dùng trong các lĩnh vực khác. - Phân loại nước sạch phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và sự phát triển kinh tế- xã hội. Mỗi quốc gia có tiêu chí phân loại nước sạch riêng biệt. * Tiêu chuẩn nước sạch - Đối với Việt Nam: Hiện tại, tiêu chuẩn nước sạch ở Việt Nam do Bộ Y tế ban hành với 112 tiêu chí xác định. Theo đó, quy định tiêu chuẩn nước dùng trong ăn uống, chế biến thực phẩm, dùng trong các cơ sở sản xuất; nước cấp theo đường ống từ nhà máy đến các khu đô thị, nước cấp theo đường ống từ trạm cấp nước tập trung dùng cho từ 500 người trở lên. Trước đó, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 505/BYT/QĐ ngày 13/4/1992 về tiêu chuẩn vệ sinh cấp nước cho ăn uống và sinh hoạt với 29 tiêu chí đánh giá (xem phụ lục 1). - Đối với thế giới: Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ban hành tiêu chuẩn nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt với 30 tiêu chí cơ bản. Trong 30 tiêu chí của WTO có 10 tiêu chí chưa có quy định cụ thể; các tiêu chí là thống nhất, không phân biệt thành thị, nông thôn, nước mặt, nước ngầm. So với Việt Nam tiêu chuẩn của WTO có một vài khác biệt, nhưng những tiêu chí cơ bản như độ pH, Asen , độ cặn hoà tan... là tương đồng (xem phụ lục 2). Tiêu chuẩn nước sạch của WHO với các tiêu chí đánh giá chỉ có tính chất tham khảo; mỗi quốc gia xây dựng theo một tiêu chí riêng, tuỳ từng điều kiện, đặc điểm của mỗi nước. Qua các tiêu chuẩn nước sạch của WHO và Việt Nam cho thấy một mặt, hệ tiêu chí đánh giá thông qua các chất không hoàn toàn giống nhau; mặt khác, trong cùng một chất giống nhau nhưng hàm lượng cũng có những khác biệt nhất định. 1.1.2. Vai trò của nước sạch đối với con người Tầm quan trọng của nguồn nước nói chung và nước sạch nói riêng không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia, lãnh thổ mà là vấn đề mang tính toàn cầu, là nội dung trong chương trình nghị sự, đã và đang được bàn luận sôi nổi và thu hút sự quan tâm về tình trạng cạn kiệt nguồn nước, tình trạng nước bị ô nhiễm, thiếu nước sạch ở một số nơi trên thế giới luôn là nội dung mang tính thời sự trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thế giới đã từng chứng kiến những đại dịch cướp đi sinh mạng hàng ngàn người bởi nguồn nước bị ô nhiễm hay những khó khăn mà con người phải đối mặt khi nguồn nước khan hiếm. Theo báo cáo của Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc, nguồn nước sạch toàn cầu đang cạn kiệt. Nguyên nhân là do sự bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường, việc khai thác nguồn nước dưới đất vượt mức cho phép. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Thời gian qua, chúng ta chứng kiến những "làng ung thư " ở Phú Thọ, Hải Phòng... mà báo chí liên tục đưa tin, tình trạng nước nhiễm bẩn ở Hà Nội, Đà Nẵng... đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sức khoẻ, sự an toàn cá nhân và gây hoang mang trong dư luận xã hội. Hiện mức độ ô nhiễm của các dòng sông Đáy- sông Nhuệ, sông Cầu và hạ lưu sông Đồng Nai-Sài Gòn... đang trong tình trạng báo động. Nhiều hồ nước tiềm ẩn khả năng tích luỹ ô nhiễm kim loại, các hợp chất hữu cơ ở rất nhiều nơi khiến cho nguồn nước mặt không sử dụng được. Nguồn nước dưới đất tại miền Bắc, miền Trung và mới đây là đồng bằng sông Cửu Long... cũng đang bị ô nhiễm asen một cách trầm trọng. Chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế (IWRA) cho thấy, Việt Nam đang và sẽ thiếu nước trong tương lai gần. Do vậy, bảo vệ tài nguyên nước là nhiệm vụ cấp bách được đặt ra và cần quan tâm giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Chiến lược Quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 cũng đã nêu rõ " bảo vệ tài nguyên nước và hệ sinh thái thuỷ sinh" là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ chính thức. Nước không đảm bảo tiêu chuẩn quy định, nói cách khác là nước vượt hàm lượng tiêu chuẩn cho phép có thể dẫn đến những tác hại trước mắt cũng như lâu dài. Nếu như một số chất hoà tan vượt quá tiêu chuẩn có thể dẫn đến tử vong như Thạch tín, thì một số chất không gây ngộ độc hay tử vong ngay mà có thể ảnh hưởng đến các thế hệ tiếp theo đó là Mangan hay Magiê. Lượng Amôniăc hay Sulphua vượt quá quy định sẽ gây mùi khó chịu và là môi trường tốt cho vi khuẩn E.Coli gây bệnh; lượng sắt vượt quá quy định không chỉ làm hỏng quần áo khi giặt giũ mà còn làm hỏng các thiết bị liên quan đến nước, gây thiệt hại về kinh tế... Như vậy, để đảm bảo sức khoẻ của mỗi cá nhân, của cộng đồng, đảm bảo môi trường xanh, sạch thì nước ăn uống và sinh hoạt phải được cấp theo tiêu chuẩn quy định [30, tr.12]. 1.1.3. Hoạt động cấp nước sạch đô thị 1.1.3.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị - Hoạt động cấp nước: là các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, bao gồm quy hoạch, tư vấn thiết kế, đầu tư xây dựng, tổ chức vận hành, bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch và sử dụng nước. - Dịch vụ cấp nước: là các hoạt động có liên quan của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch. - Đơn vị cấp nước: là tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động khai thác, sản xuất, truyền dẫn, bán buôn nước sạch và bán lẻ nước sạch. - Khách hàng sử dụng nước: là tổ chức, cá nhân và hộ gia đình mua nước sạch của đơn vị cấp nước. - Hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh: là một hệ thống bao gồm các công trình khai thác, xử lý nước, mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch đến khách hàng sử dụng nước và các công trình phụ trợ có liên quan. - Mạng lưới cấp nước: là hệ thống đường ống truyền dẫn nước sạch từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, bao gồm mạng cấp I, mạng cấp II, mạng cấp III và các công trình phụ trợ có liên quan. - Mạng cấp I: là hệ thống đường ống chính có chức năng vận chuyển nước tới khu vực của vùng phục vụ cấp nước và tới các khách hàng sử dụng nước lớn. - Mạng cấp II: là hệ thống đường ống nối có chức năng điều hoà lưu lưọng cho các tuyến ống chính và đảm bảo sự làm việc an toàn của hệ thống cấp nước. - Mạng cấp III: là hệ thống đường ống phân phối lấy nước từ các tuyến ống chính và các ống nối dẫn nước tới các khách hàng sử dụng nước. - Công trình phụ trợ: là các công trình hỗ trợ cho việc quản lý, vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa đối với hệ thống cấp nước như sân, đường, nhà xưởng, tường rào, trạm biến áp, các loại hố van, hộp đồng hồ, họng cứu hoả... - Thiết bị đo đếm nước: là thiết bị đo lưu lượng, áp lực bao gồm các loại đồng hồ đo nước, đồng hồ đo áp lực và các thiết bị, phụ kiện kèm theo. - Vùng phục vụ cấp nước: là khu vực có danh giới xác định mà đơn vị cấp nước có nghĩa vụ cung cấp nước sạch cho các đối tượng sử dụng nước trong khu vực đó [18, tr.1]. - Cấp nước sạch đô thị: liên quan đến việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, quy định tại Nghị định 72/2001/NĐ-CP. Loại đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được các cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập gồm 6 loại, từ loại đặc biệt đến loại 5; cấp quản lý gồm thành phố trực thuộc trung ương, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh hoặc trung ương và thị trấn trực thuộc huyện với các tiêu chí cụ thể về mật độ dân số, quy mô dân số, kết cấu hạ tầng, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp... Bảng 1.1: Phân loại đô thị ở Việt Nam Đô thị loại Dạng Dân số Ghi chú Đặc biệt Rất lớn Từ 1,5 triệu dân Hà Nội, Hồ Chí Minh 1 T.P trực thuộc TW 0,5- 1,5 triệu dân 3 thành phố 2 Các thành phố thuộc vùng, tỉnh 250 -500 nghìn dân 12 thành phố 3 Các thị xã tỉnh lỵ 100 - 250 nghìn 16 thị xã 4 Các đô thị loại 4 (tỉnh) 50 - 100 nghìn 58 đô thị 5 Các thị trấn 4 - 50 nghìn 612 thị trấn Nguồn [14, tr.3]. 1.1.3.2. Đặc điểm tài nguyên nước chi phối hoạt động cấp nước sạch đô thị Ngoài các đặc điểm chung về tài nguyên nước trên cả nước đó là: nguồn tài nguyên có hữu hạn nhưng nhu cầu đang tăng nhanh; chất lượng nước có nguy cơ bị ô nhiễm; tài nguyên nước không chỉ có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, cho tưới tiêu, mà còn là nguồn năng lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành như thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp... và đặc biệt là thuỷ điện. Đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị tài nguyên nước là đầu vào chủ yếu, là nhân tố quyết định sự lựa chọn quy hoạch, kế hoạch khai thác, lựa chọn trình độ công nghệ. Tài nguyên nước bao gồm nước mưa, lượng trữ ẩm, nước sông, hồ, đầm lầy, nước trong lòng đất và nước ở biển. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập rõ thêm đặc điểm tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị. Về mạng lưới sông ngòi: Hệ thống sông Thanh Hoá có 16 sông chính và nhánh, 4 sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng. Tổng chiều dài hệ thống 1.072 km, mật độ xấp xỉ 0,1km/km2, các sông đều ngắn (trừ sông Mã dài 528 km), sông có độ dốc lớn biến thiên từ 5,4% đến 23,7%. Về nước mặt: Trung bình hàng năm tổng lượng nước mưa rơi trên diện tích Thanh Hoá khoảng 19 tỉ m3, lượng nước bốc hơi trở lại khoảng 9 tỉ m3, còn lại 10 tỉ m3 hình thành nên dòng chảy mặt của sông suối và dòng chảy ngầm. Nước mặt chủ yếu tồn tại ở hệ thống sông ngòi [1, tr.135]. Nguồn nước mặt Thanh Hoá rất phong phú về trữ lượng, có thể cung cấp nước cho Thanh Hoá như 4 hệ thống sông, sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Lạch Bạng; ngoài ra nhiều hồ lớn, cấp quốc gia như hồ sông Mực, cấp tỉnh như hồ Yên Mỹ, hồ Thung Bằng, hồ Đồng Ngư... Mặc dù vậy, số lượng và chất lượng nước mặt không ổn định mà biến động theo 2 mùa rõ rệt, mùa lũ và mùa cạn tạo nên vùng ít nước vùng nhiều nước, gây khó khăn lớn cho việc xử lý và không hiệu quả về kinh tế [1, tr.129]. Về nước ngầm: Theo đánh giá của Tổng cục Địa chất từ thập kỷ 60 đã tiến hành điều tra, khảo sát đánh giá trữ lượng nước ở một số vùng Bỉm Sơn, Hàm Rồng, Sầm Sơn, Tĩnh Gia; trữ lượng nước cấp C1là 242.930 m3/ngày; trữ lượng nước cấp C2 là 242.930 m3/ngày; trữ lượng nước cấp A là 34.300 m3/ngày; trữ lượng nước cấp B là 42.560 m3/ngày. Ngoài ra trước đây cũng đã thăm dò, khai thác nước ngầm ở một số nơi như nông trường Đồng Giao, nông trường Hà Trung, nông trường Lam Sơn, công suất các lỗ khoan đạt từ 200 m3/ngày đến 2.000 m3/ngày. Như vậy, lượng nước ngầm của Thanh Hoá không nhiều khoảng 0,3 tỉ m3. Mặt khác, chất lượng nước ngầm dùng cho sinh hoạt phải đạt chỉ tiêu độ pH nằm trong khoảng 6,5-8,5 và độ khoáng hoá nhỏ hơn 01mg/lít, hàm lượng vi nguyên tố và các thành phần khác trong giới hạn cho phép. Nước ngầm Thanh Hoá nhìn chung đạt tiêu chuẩn, trừ một vài nơi vùng biển có độ khoáng hoá từ 1-3 mg/lít. Tóm lại, trong quy hoạch nước ngầm về chọn địa điểm khai thác cần phải khảo sát thêm một số vùng nữa để có căn cứ chắc chắn; tuy nhiên, những số liệu có được cho thấy vùng đồng bằng, đặc biệt là thành phố Thanh Hoá, Sầm Sơn là những nơi có trữ lượng nước nhiều, chất lượng nước đảm bảo có thể khai thác nước ngầm. Nếu đem chia bình quân lượng nước mưa rơi còn lại hình thành nguồn nước mặt (9,7 tỉ m3), mỗi ngưòi dân được hưởng 2.636 m3/năm hoặc 7.221 lít /ngày. So với thế giới giá trị này đứng thứ 4 , thế giới thấp nhất < 500m3 và cao nhất 100.000m3/người/năm; so với trong nước giá trị này khá cao, gấp 47 lần nước cấp sinh hoạt cho đô thị lớn (khoảng 150 lít/người/ngày) [1, tr.142]. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi cơ bản nói trên tài nguyên nước của tỉnh Thanh Hoá có những khó khăn phức tạp, như sau: Thứ nhất, nguồn nước mặt thực tế không thật dồi dào: Việc sử dụng không hợp lý tài nguyên khai thác rừng, canh tác du canh, phá rừng làm dẫy, làm cho xói mòn, rửa trôi nhanh mạnh, gây nên hiện tượng bồi lắp dòng sông, gây lụt lớn ở đồng bằng, khô hạn ở miền trung. Theo cân bằng nước trong điều kiện tự nhiên thì Thanh Hoá có nguồn nước mặt dồi dào. Tuy nhiên, lượng dòng chảy các sông rất biến động, tình trạng nhiều hoặc ít nước có khi kéo dài, dòng chảy các sông lại chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa lũ tương ứng với mùa mưa, mùa cạn tương ứng với mùa ít mưa; lượng mưa 2 mùa ở các vùng chênh nhau và phân phối không đều, nơi nhiều, nơi ít nước. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu và Thiết kế thuỷ điện trình bày trong báo cáo "Giải trình kinh tế kỹ thuật quy hoạch thuỷ điện nước ta" tháng 12 năm 1980 cho biết, đối với Thanh Hoá những năm nước trung bình, lượng nước dùng so với tổng lượng nước tự nhiên chiếm tỷ lệ nhỏ từ 0,15% đến 44,8%; đối với năm nước kiệt, thiết kế với P=75%, tỷ số này biến đổi từ 0,17% đến 61,6% và với năm có P=95%, tỷ số này biến đổi từ 0,19% đến 90,1%. Tại khu vực Lèn là nơi sử dụng nước nhiều nhất, hệ số khai thác tài nguyên nước vượt quá tiêu chuẩn khai thác bền vững do UNESCO quy định. UNESCO đưa ra tiêu chí khai thác bền vững là tỷ số dao động từ 30% đến 40%. Nhìn chung nguồn nước sông ngòi của Thanh Hoá thực tế không thật dồi dào, đặc biệt vào mùa cạn. Xét về lâu dài, việc điều tiết và phân phối lại nguồn nước là rất cần thiết. Thứ hai, chất lượng nước bị ô nhiễm nhiều nơi: Hàng chục năm về trước, nước mặt và nước ngầm ở Thanh Hoá còn khá sạch. Những năm gần đây bị ô nhiễm nặng nề do sử dụng thuốc trừ sâu bệnh [1, tr.149]; do chất thải của môi trường đô thị và các cơ sở sản xuất kinh doanh tăng nhanh. Về nông nghiệp, hàng năn Thanh Hoá sử dụng từ 1500 đến 2000 tấn thuốc trừ sâu bệnh. Về môi trường đô thị, tại Thành phố Thanh Hoá các hồ chứa nước nội và ven thành phố như Hồ Thành, Hồ Máy đèn...hoặc bị lấp để xây dựng nhà ở, hoặc do dùng phân sống nuôi cá và nơi chứa mọi chất thải sinh hoạt; mỗi ngày có 250 m3 chất thải rắn, nhưng Công ty Môi trường Đô thị mới chỉ gom được 100 m3; hệ thống thoát tiêu nước mới chỉ đạt khoảng 20%, ngoài cống tiêu chảy thẳng ra sông Bến Ngự, còn nhiều khu dân cư mới xây dựng không có hệ thống thoát nước; các chất thải đều được xả trực tiếp, hoặc gián tiếp (ngấm qua đất) xuống các dòng sông. Thị xã Sầm Sơn là khu du lịch cũng chưa có hệ thống tiêu thoát nước và cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, chủ yếu dùng giếng khơi. Tình trạng ứ đọng nước ở vùng trũng, địa hình thấp của các huyện Nông Cống, Quảng Xương, H

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia 2.doc
Tài liệu liên quan