Luận văn Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa

Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có một bước phát triển vượt bậc và tương đối toàn diện. Trong quá trình phát triển đó, cùng với các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp tư nhân đã được pháp luật thừa nhận và phát triển mạnh, rộng khắp trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt trong những năm gần đây khi Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực (1/1/2000) thì doanh nghiệp tư nhân càng phát triển mạnh mẽ hơn cả về quy mô và tốc độ. Ngành du lịch cũng là một ngành được các doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư phát triển với nhịp độ cao và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch đã góp phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực xã hội vào hoạt động kinh doanh du lịch, tạo thêm việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách cho nhà nước.

Thanh Hóa là một tỉnh có tiềm năng du lịch lớn. Do có những ưu thế về địa lý tự nhiên như bãi biển đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử. nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư vào hoạt động kinh doanh du lịch và đã tạo ra một nguồn thu to lớn cho ngân sách tỉnh nhà, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, góp phần đáng kể vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, quá trình phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa đã và đang gặp phải không ít những khó khăn, hạn chế. Do chưa có những hình thức tổ chức hợp lý nên hoạt động kinh doanh du lịch tư nhân còn mang nặng tính tự phát và ở một số nơi các doanh nghiệp tư nhân còn hoạt động mang tính thời vụ, chụp giật. Việc đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân cho việc xây dựng các cảnh quan, các giá trị văn hóa, nơi vui chơi giải trí, cũng như tạo sự hấp dẫn độc đáo của các sản phẩm du lịch còn thiếu tính đồng bộ; chất lượng các dịch vụ còn hạn chế. Cơ chế chính sách đối với sự mở rộng và phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhiều mặt bất cập. Tình hình an ninh trật tự trong các hoạt động dịch vụ du lịch còn có nhiều biểu hiện chưa tốt. Tất cả những điều đó đang làm giảm vai trò, đóng góp của doanh nghiệp tư nhân trong phát triển ngành du lịch Thanh Hóa. Nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác phục vụ nhu cầu của xã hội, đóng góp của doanh nghiệp tư nhân ngành du lịch vào giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của nhân dân tỉnh Thanh Hóa còn khiêm tốn.

Vì vậy, nghiên cứu sự phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi có sự luận giải cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn đóng góp bổ sung nhận thức về sự vận động, phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở ngành du lịch cả nước nói chung. Xuất phát từ những vấn đề trên mà đề tài " Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa " được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.

 

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có một bước phát triển vượt bậc và tương đối toàn diện. Trong quá trình phát triển đó, cùng với các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp tư nhân đã được pháp luật thừa nhận và phát triển mạnh, rộng khắp trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt trong những năm gần đây khi Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực (1/1/2000) thì doanh nghiệp tư nhân càng phát triển mạnh mẽ hơn cả về quy mô và tốc độ. Ngành du lịch cũng là một ngành được các doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư phát triển với nhịp độ cao và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch đã góp phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực xã hội vào hoạt động kinh doanh du lịch, tạo thêm việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách cho nhà nước. Thanh Hóa là một tỉnh có tiềm năng du lịch lớn. Do có những ưu thế về địa lý tự nhiên như bãi biển đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử... nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư vào hoạt động kinh doanh du lịch và đã tạo ra một nguồn thu to lớn cho ngân sách tỉnh nhà, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, góp phần đáng kể vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, quá trình phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa đã và đang gặp phải không ít những khó khăn, hạn chế. Do chưa có những hình thức tổ chức hợp lý nên hoạt động kinh doanh du lịch tư nhân còn mang nặng tính tự phát và ở một số nơi các doanh nghiệp tư nhân còn hoạt động mang tính thời vụ, chụp giật. Việc đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân cho việc xây dựng các cảnh quan, các giá trị văn hóa, nơi vui chơi giải trí, cũng như tạo sự hấp dẫn độc đáo của các sản phẩm du lịch còn thiếu tính đồng bộ; chất lượng các dịch vụ còn hạn chế. Cơ chế chính sách đối với sự mở rộng và phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhiều mặt bất cập. Tình hình an ninh trật tự trong các hoạt động dịch vụ du lịch còn có nhiều biểu hiện chưa tốt. Tất cả những điều đó đang làm giảm vai trò, đóng góp của doanh nghiệp tư nhân trong phát triển ngành du lịch Thanh Hóa. Nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác phục vụ nhu cầu của xã hội, đóng góp của doanh nghiệp tư nhân ngành du lịch vào giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của nhân dân tỉnh Thanh Hóa còn khiêm tốn. Vì vậy, nghiên cứu sự phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi có sự luận giải cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn đóng góp bổ sung nhận thức về sự vận động, phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở ngành du lịch cả nước nói chung. Xuất phát từ những vấn đề trên mà đề tài " Doanh nghiệp tư nhõn trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Húa " được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay về doanh nghiệp tư nhân đã có rất nhiều công trình khoa học trên các bình diện khác nhau. Điển hình là một số công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả như sau: - "Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta". GS.TS Hồ Văn Vĩnh (Đề tài cấp bộ năm 2001). Tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của kinh tế tư nhân nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư nhân và đưa ra các giải pháp về pháp luật, về chính sách, về tổ chức để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. - "Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập". PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai, Nxb Thế giới, Hà Nội - 2005. Tác giả đưa ra những vấn đề chung về khu vực kinh tế tư nhân; Phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong điều kiện hội nhập; trong đó tác giả có đưa ra một số danh mục hộp như: các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam, vốn thực tế của doanh nghiệp tư nhân như thế nào, số lượng doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam.... - "Các doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc: Những đặc trưng" của SEUNG - WOOK BAEK (Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Viện thông tin khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003). ở đây, tác giả đã nói lên sự tái xuất hiện các chủ doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc, trong đó nói đến chính sách cải cách kinh tế và việc hình thành khu vực kinh tế tư nhân, tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp tư nhân; Cung cấp các doanh nghiệp tư nhân thông qua hệ thống hiện tại, các hợp tác xã giả hiệu; Ba đặc trưng của doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc đó là: Quản lý gia trưởng, quản lý mang tính gia đình, đầu tư rất ít vào phát triển công nghệ. - "Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Bùi Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2006. Về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch có ít người nghiên cứu hơn. Tác giả xin đưa ra một số công trình nghiên cứu khoa học của một số tác giả về vấn đề kinh tế du lịch và doanh nghiệp tư nhân trong du lịch như sau: - "Kinh tế du lịch Thừa Thiên - Huế, tiềm năng và phương hướng phát triển". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1997). Trong luận văn này tác giả đã đánh giá đúng những tiềm năng to lớn của ngành du lịch Thừa Thiên Huế và chỉ ra những phương hướng để khai thác có hiệu quả tiềm năng này. - "Kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp phát triển". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hồng Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005). Trong luận văn này tác giả đã đánh giá được những thành tựu và những mặt hạn chế của sự phát triển ngành du lịch Thanh Hóa và đề ra các giải pháp để phát triển. - "Doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Lê Thị Hương, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006). Trong luận văn tác giả làm rõ cơ sở lý luận vị trí, vai trò và xu hướng phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội nói riêng. Đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong du lịch Hà Nội. Đề ra các giải pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong du lịch Hà Nội. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về doanh nghiệp tư nhân ngành du lịch tỉnh Thanh Hóa trên giác độ kinh tế chính trị. Do đó, "Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa" vẫn đang là khoảng trống trong khoa học cần được nghiên cứu để vận dụng vào thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ đặc điểm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian qua và từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch. - Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch. - Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở một số tỉnh, thành và rút ra bài học cho phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa. - Đánh giá rõ những thành công, hạn chế trong phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian qua cùng nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó. - Đề xuất các phương hướng và giải pháp tiếp tục phát triển nhanh, có hiệu quả các doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các doanh nghiệp tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ du lịch cùng các quan hệ kinh tế - xã hội có liên quan đến lĩnh vực này. - Phạm vi nghiên cứu gồm những doanh nghiệp tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch ở tỉnh Thanh Hóa thời gian chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tỉnh Thanh Hóa về phát triển các doanh nghiệp tư nhân nói chung và trong hoạt động du lịch nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống của kinh tế chính trị như: trừu tượng hóa khoa học phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh,... 6. Những đóng góp về khoa học luận văn - Làm rõ thêm đặc thù của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa. - Chỉ ra những thành công và hạn chế trong phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa. - Đề ra giải pháp để hoàn thiện chính sách nâng cao vai trò doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch 1.1. Khái niệm, Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch 1.1.1.1 Doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch Doanh nghiệp là chủ thể sản xuất kinh doanh chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, doanh nghiệp là một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến được quy định trong khuôn khổ pháp luật hiện hành. Theo Điều 4, chương I, Luật Doanh nghiệp của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”[29]. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận. Tùy theo tiêu chí, có thể phân loại doanh nghiệp thành các nhóm khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động sản xuất - kinh doanh theo ngành, có thể phân biệt các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp giao thông vận tải, doanh nghiệp thương mại...; Theo tiêu chí quy mô về vốn và lao động có thể phân biệt các cấp độ doanh nghiệp như doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ. Theo hình thức tổ chức hoạt động, các doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh dưới các hình thức như DN tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Theo nguồn gốc vốn đầu tư có thể phân biệt các DN trong nước với các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Căn cứ vào tính chất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, các DN được phân chia thành DN nhà nước và DN tư nhân… Mặc dù DNTN được xác định là một bộ phận của hệ thống DN trong nền kinh tế, nhưng cho đến nay vẫn đang còn những quan niệm khác nhau về khái niệm DNTN. Theo phương diện pháp lý, DNTN được hiểu là loại hình DN “do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” [29]. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, DNTN không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN. Cho nên DNTN theo cách hiểu trên chỉ bao gồm những DN chủ yếu có quy mô nhỏ. Những DN loại này là biểu hiện của hình thức sở hữu tư nhân tương đối nhỏ, tồn tại phổ biến trong các giai đoạn hình thành kinh tế thị trường và thường là hình thức tổ chức kinh doanh chủ yếu trong các nền kinh tế chưa phát triển. Quan niệm như trên là đúng nhưng chưa đủ vì chưa phản ánh được sự vận động của hình thức sở hữu tư nhân lớn trong nền kinh tế thị trường. Theo phương diện quan hệ sở hữu, DNTN được hình thành, vận động và phát triển trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Theo phương diện này có thể phân biệt DNNN và DNTN. Tuy nhiên, từ đây cũng đã xuất hiện quan niệm cho rằng, DNTN gồm toàn bộ những DN hoạt động chủ yếu dựa vào sở hữu ngoài nhà nước như sở hữu cá nhân, gia đình, tập thể hay đoàn thể chung vốn…, tồn tại dưới các hình thức công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, DNTN dựa trên cơ sở sở hữu ngoài nhà nước và các công ty cổ phần mà nhà nước hoặc không có cổ phần hoặc không giữ cổ phần chi phối. Quan niệm này chủ yếu dựa vào sự phân biệt các DN theo tiêu chí vị trí chi phối của sở hữu nhà nước, vì vậy chưa phản ánh rõ những khác biệt giữa sở hữu tư nhân với các hình thức sở hữu khác ngoài nhà nước khác như sở hữu tập thể. Theo giác độ kinh tế chính trị, DNTN là hình thức biểu hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì vậy mọi DN hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân dù lớn hay nhỏ đều thuộc nhóm DNTN, trong đó bao gồm cả các công ty cổ phần mà sở hữu tư nhân giữ vị trí chi phối. ở nước ta kể từ sau Đại hội VI (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước đã chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhờ vậy kinh tế tư nhân được khôi phục và phát triển mạnh, đặc biệt dưới hình thái DNTN. DNTN được khuyến khích phát triển không những về số lượng, quy mô, mà cả về lĩnh vực, địa bàn hoạt động, và được phép kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Trong bối cảnh đó, DNTN được thành lập và đi vào hoạt động ngày càng nhiều, không những trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, mà còn ngày càng mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch. Từ việc nghiên cứu về DNTN trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội tác giả Lê Thị Hương đã nêu ra định nghĩa: “Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch là các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, tìm hiểu, giải trí và các nhu cầu khác của khách du lịch” [24]. Định nghĩa này đã khái quát được nội hàm chủ yếu của DNTN trong lĩnh vực du lịch, vì vậy, khái niệm DNTN trong ngành du lịch của luận văn sẽ được sử dụng theo định nghĩa này. Trong nền kinh tế nước ta ngày nay, DNTN trong ngành du lịch, cũng như các DNTN hoạt động trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế, vận động dưới sự chi phối của các quy luật của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đồng thời được chế định bởi định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên bản chất kinh tế - xã hội của loại hình DN này vừa mang tính là tư nhân, vừa chịu tác động của định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự vận động phát triển của chúng với tư cách là bộ phận quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước. 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch DNTN trong ngành du lịch là những DN dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân, cho nên mang những đặc điểm chung của DNTN, đồng thời hoạt động chủ yếu của các DN này được thực hiện trong lĩnh vực du lịch, cho nên chúng cũng chịu ảnh hưởng từ những đặc điểm của ngành du lịch với tư cách là một lĩnh vực dịch vụ đặc thù. Do vậy, những đặc điểm chủ yếu của DNTN trong ngành du lịch bao gồm: Thứ nhất, những đặc điểm chung thể hiện sự khác biệt của DNTN trong ngành du lịch so với các DN dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu khác về tư liệu sản xuất trong ngành du lịch và trong toàn bộ nền kinh tế. Những đặc điểm này bao gồm: Một là, về quan hệ sở hữu và mục tiêu kinh doanh. DNTN trong ngành du lịch hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về vốn và các điều kiện kinh doanh, có mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là lợi nhuận. Xuất phát từ bản chất của sở hữu tư nhân, lợi ích kinh tế căn bản mà DNTN trong ngành du lịch là thực hiện quyền sở hữu tư nhân, thể hiện mục đích, động cơ hoạt động vì lợi nhuận. Để bảo tồn và phát triển nguồn vốn của mình các DNTN trong ngành du lịch cũng như các DNTN thuộc các lĩnh vực hoạt động khác đều phải cố gắng thu được lợi nhuận tối đa. Hoạt động trong ngành du lịch chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu này. Mặc dù hoạt động của DNTN trong ngành du lịch phải hướng vào đáp ứng nhu cầu xã hội, song so với các loại hình DN không dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân như các DNNN, DN tập thể, hiệu quả xã hội không phải là mục tiêu trực tiếp của DNTN trong ngành du lịch. Trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh, nếu hoạt động trong ngành du lịch không mang lại hiệu quả kinh tế, hoặc không có hiệu quả kinh tế cao, thì các DNTN trong ngành du lịch sẽ có xu hướng thu hẹp hoạt động đầu tư, tìm cách chuyển vốn sang kinh doanh trong ngành khác có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, nếu tỷ suất lợi nhuận trong ngành du lịch cao hơn so với trong các ngành kinh tế khác, thì DNTN sẽ có xu hướng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh không những bằng các nguồn vốn tự tích luỹ được, mà còn thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư khác kể cả trong và ngoài ngành du lịch. Trong khi đó, các DNNN hoặc DN tập thể thường không thể nhanh chóng chuyển hướng đầu tư do yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất định hướng vào lợi ích xã hội hoặc lợi ích tập thể. Đặc điểm này cho phép luận giải được một phần sự phát triển của các DNTN trong ngành du lịch trong những bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể. Tỷ suất lợi nhuận thấp so với các ngành khác là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển nhanh của DNTN trong ngành du lịch. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh theo mục tiêu lợi nhuận của các DNTN trong ngành du lịch cũng có thể gây ra tình trạng không lành mạnh như làm mất cân đối giữa cung và cầu, gây lãng phí nguồn lực xã hội; gây nên tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội; làm hàng giả, hàng lậu, nâng giá, ép giá, gây ô nhiễm môi trường sinh thái... Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với các DNTN nói chung và DNTN trong ngành du lịch nói riêng cần phải hướng vào việc lành mạnh hoá hoạt động của các DN này. Hoạt động của chúng có tác động tới sự ổn định kinh tế vĩ mô và nguồn thu ngân sách nhà nước. Hai là, về quan hệ tổ chức quản lý. DNTN trong ngành du lịch hoạt động vì lợi ích của các chủ sở hữu tư nhân, có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam, các hình thức tổ chức DNTN trong ngành du lịch ngày nay bao gồm công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, DNTN. + Công ty cổ phần với tư cách là hình thức DNTN trong ngành du lịch vừa mang đặc điểm chung của công ty cổ phần vừa thể hiện những đặc điểm riêng của sở hữu tư nhân. Đây là hình thức tổ chức DN dựa trên cơ sở tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh, nhưng vị trí chi phối thuộc về chủ thể tư nhân. DNTN dưới hình thái công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở vốn cổ phần của các thành viên với mục tiêu cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp. Cổ đông của công ty có thể gồm cả nhà nước và các chủ thể đại diện cho sở hữu nhà nước, song cổ phần khống chế thuộc về các chủ thể tư nhân, vì vậy nhà nước không thể chi phối trực tiếp hoạt động của công ty. Theo quy định của pháp luật, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 3, không hạn chế số lượng tối đa. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó gọi là cổ phiếu. Những người sở hữu các cổ phần được gọi là cổ đông, là những người góp vốn để thành lập công ty và có quyền tham gia điều hành việc quản lý và sử dụng vốn, cũng như tham gia điều hành doanh nghiệp. Việc tham gia điều hành doanh nghiệp của các cổ đông được tiến hành thông qua các quyết định của Đại hội cổ đông. Quyền bỏ phiếu các quyết định trong Đại hội cổ đông, cũng như việc tham gia Hội đồng quản trị công ty phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu mà các cổ đông nắm giữ. Điều hành công việc hàng ngày của công ty do Ban Giám đốc điều hành được Hội đồng quản trị công ty chỉ định. Thành viên của Ban giám đốc điều hành có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông, nhưng đều hoạt động theo nguyên tắc thuê mướn thông qua hợp đồng nhằm mang lại lợi ích tối đa cho cổ đông. Các cổ phần của các công ty có thể được mua bán trên thị trường chứng khoán chính thức nếu đủ điều kiện niêm yết, hoặc trên thị trường không chính thức nếu không đủ điều kiện niêm yết. + Công ty TNHH có hai thành viên trở lên là DN trong đó các thành viên là chủ thể sở hữu tư nhân cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành cổ phiếu. + Đối với Công ty TNHH có một thành viên là DN do một tổ chức dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoặc cá nhân tư nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Giống như công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng không được phép phát hành cổ phiếu. + Công ty hợp danh trong tổ chức quản lý về cơ bản giống công ty TNHH (có hai thành viên trở lên). Trong điều hành hoạt động công ty, các thành viên tư nhân hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức trách quản lý và kiểm soát công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hàng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó [40]. + DNTN theo quy định tại điều 141 và 143 - Luật Doanh nghiệp 2005, chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Cơ cấu tổ chức của DNTN đơn giản hơn, không có hội đồng thành viên, không được quyền phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Tất cả các hình thức tổ chức DNTN trong ngành du lịch kể trên đều dựa vào sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, hoạt động quản lý trực tiếp có thể được thực hiện bởi các chủ thể sở hữu DN, hoặc được thực hiện bởi bộ máy quản lý theo hình thức thuê mướn. Bộ máy quản lý thuê mướn trong các DNTN ngành du lịch được hình thành trên cơ sở tách bạch quyền quản lý kinh doanh và quyền sở hữu trong quan hệ sở hữu tư nhân. Mặc dù sự tách bạch hai nhóm quyền này cũng có thể được thực hiện trong các hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, nhưng trong sở hữu tư nhân bộ máy quản lý kinh doanh thường có tính linh hoạt cao hơn và gắn với các chủ thể sở hữu chặt chẽ hơn do bộ máy này được thành lập và hoạt động nhằm thực hiện lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu tư nhân. Sự chi phối của sở hữu tư nhân đối với bộ máy quản lý kinh doanh trong các DNTN nói chung và trong các DNTN ngành du lịch nói riêng thể hiện thông qua khả năng nhanh chóng thay thế bộ máy quản lý hiện hành bằng một bộ máy quản lý khác, nếu bộ máy quản lý hiện hành đó có biểu hiện không đáp ứng được các yêu cầu của các chủ thể sở hữu tư nhân. Sự chi phối của lợi ích tư nhân đã tạo ra sức ép lớn đối với bộ máy quản lý, buộc các chủ thể quản lý kinh doanh phải không ngừng vươn lên để tránh bị đào thải. Quyền tự chủ quyết định lựa chọn ngành nghề và phương án kinh doanh, tuyển dụng lao động, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cho phép DNTN trong ngành du lịch có thể đưa ra quyết đinh nhanh chóng trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình, việc lựa chọn hình thức, quy mô hoạt động kinh doanh cũng hết sức linh hoạt. Chủ doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn các yếu tố đầu vào như vốn, sức lao động, khoa học - công nghệ... phù hợp với năng lực của mình. Việc sử dụng các nguồn lực một cách linh hoạt sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế tối đa. Dù chủ thể sở hữu của DNTN có trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp hay thuê người quản lý thì DNTN vẫn tìm mọi cách để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình, nhất là trong việc sử dụng nguồn nhân lực với chế độ trả lương hợp lý. Nhờ đó DNTN có thể thu hút được nguồn lao động có chất lượng. Ngược lại, đối với những lao động chất lượng kém thì chủ DNTN có toàn quyền sa thải, những mức lương do DNTN áp dụng về cơ bản do thị trường lao động tự điều tiết trong khuôn khổ của Bộ luật lao động. Đồng thời, DNTN dễ dàng tiếp cận với các nguồn nguyên liệu và tài nguyên sẵn có trong nước, có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, vừa tạo khả năng liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nhau, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn. Đặc biệt trong xu thế hội nhập WTO hiện nay, những vấn đề cơ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDE CUONG LV 1.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan