Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, trong đó chỉ rõ: Phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ mà thành phố có thế mạnh, làm tiền đề chuyển nền kinh tế thành phố từ cơ cấu “Công nghiệp - Dịch vụ -Nông nghiệp” sang cơ cấu “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp" sau năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010 đón 2 triệu lượt du khách, trong đó có 800.000 lượt khách quốc tế và 1,2 triệu khách nội địa. Đồng thời, Bộ Chính trị (khoá IX) cũng đã ra Nghị Quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện các Nghị quyết nêu trên, trong những năm qua, đặc biệt là từ khi Thành phố chính thức trở thành Đô thị loại I trực thuộc Trung ương, ngành du lịch đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội Đà Nẵng.
Đà Nẵng nằm ở trung lộ của cả nước, với trên 30km bờ biển xanh, sạch, đẹp được xếp vào Top 1 trong số 06 bãi biển đẹp nhất hành tinh; có sân bay, cảng biển quốc tế và những điều kiện hết sức thuận lợi về giao thông đường sắt, đường bộ, là trung điểm của 05 Di sản văn hoá trong số 6 di sản văn hoá thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận là Cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế, Động Phong Nha, phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn - trung điểm của “Hành trình Di sản” của du lịch Việt Nam. Trong phạm vi khu vực và thế giới, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng của miền Tây và các nước vùng Đông Bắc Á. Vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi của tự nhiên giúp cho Đà Nẵng có điều kiện phát triển các ngành kinh tế một cách nhanh chóng và bền vững, trong đó có ngành du lịch.
Trong điều kiện chuyển đổi hoạt động kinh doanh dịch vụ theo hướng xã hội hoá mạnh mẽ và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành du lịch nước ta nói chung và du lịch Đà Nẵng nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Ngành dịch vụ du lịch còn non trẻ, mới được chuyển sang từ hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị đối ngoại là chủ yếu, tính chuyên nghiệp trong nghiệp vụ còn thấp, cơ sở đào tạo chuyên ngành còn thiếu và yếu, cơ sở vật chất phục vụ lưu trú và vận chuyển của đại bộ phận các đơn vị kinh doanh du lịch chủ yếu trên địa bàn tuy có vị trí lợi thế, nhưng đang xuống cấp trầm trọng. Hoạt động lữ hành chủ yếu là trạm trung chuyển; làm lại tour cho các hãng lớn tại hai đầu và phần lớn ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn. Tính liên kết du lịch vùng miền yếu. Do vậy, có thể nói trong thời gian qua, ngành du lịch Đà Nẵng đã phải đương đầu với rất nhiều thử thách và sẽ còn phải nỗ lực rất lớn để khai thác hết tiềm năng, lợi thế so sánh của mình trong khu vực và trong cả nước thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thành phố, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa IX) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX.
Chính vì những lý do trên, học viên chọn đề tài “Dịch vụ Du lịch ở Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, nhằm góp một phần phục vụ công tác chỉ đạo hoạt động thực tiễn đối với quản lý ngành du lịch, hướng tới đảm nhiệm nhiệm vụ của ngành “công nghiệp không khói” trong xu thế phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của thành phố Đà Nẵng.
109 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Dịch vụ Du lịch ở Thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, trong đó chỉ rõ: Phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ mà thành phố có thế mạnh, làm tiền đề chuyển nền kinh tế thành phố từ cơ cấu “Công nghiệp - Dịch vụ -Nông nghiệp” sang cơ cấu “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp" sau năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010 đón 2 triệu lượt du khách, trong đó có 800.000 lượt khách quốc tế và 1,2 triệu khách nội địa. Đồng thời, Bộ Chính trị (khoá IX) cũng đã ra Nghị Quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện các Nghị quyết nêu trên, trong những năm qua, đặc biệt là từ khi Thành phố chính thức trở thành Đô thị loại I trực thuộc Trung ương, ngành du lịch đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội Đà Nẵng.
Đà Nẵng nằm ở trung lộ của cả nước, với trên 30km bờ biển xanh, sạch, đẹp được xếp vào Top 1 trong số 06 bãi biển đẹp nhất hành tinh; có sân bay, cảng biển quốc tế và những điều kiện hết sức thuận lợi về giao thông đường sắt, đường bộ, là trung điểm của 05 Di sản văn hoá trong số 6 di sản văn hoá thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận là Cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế, Động Phong Nha, phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn - trung điểm của “Hành trình Di sản” của du lịch Việt Nam. Trong phạm vi khu vực và thế giới, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng của miền Tây và các nước vùng Đông Bắc Á. Vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi của tự nhiên giúp cho Đà Nẵng có điều kiện phát triển các ngành kinh tế một cách nhanh chóng và bền vững, trong đó có ngành du lịch.
Trong điều kiện chuyển đổi hoạt động kinh doanh dịch vụ theo hướng xã hội hoá mạnh mẽ và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành du lịch nước ta nói chung và du lịch Đà Nẵng nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Ngành dịch vụ du lịch còn non trẻ, mới được chuyển sang từ hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị đối ngoại là chủ yếu, tính chuyên nghiệp trong nghiệp vụ còn thấp, cơ sở đào tạo chuyên ngành còn thiếu và yếu, cơ sở vật chất phục vụ lưu trú và vận chuyển của đại bộ phận các đơn vị kinh doanh du lịch chủ yếu trên địa bàn tuy có vị trí lợi thế, nhưng đang xuống cấp trầm trọng. Hoạt động lữ hành chủ yếu là trạm trung chuyển; làm lại tour cho các hãng lớn tại hai đầu và phần lớn ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn. Tính liên kết du lịch vùng miền yếu... Do vậy, có thể nói trong thời gian qua, ngành du lịch Đà Nẵng đã phải đương đầu với rất nhiều thử thách và sẽ còn phải nỗ lực rất lớn để khai thác hết tiềm năng, lợi thế so sánh của mình trong khu vực và trong cả nước thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thành phố, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa IX) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX.
Chính vì những lý do trên, học viên chọn đề tài “Dịch vụ Du lịch ở Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, nhằm góp một phần phục vụ công tác chỉ đạo hoạt động thực tiễn đối với quản lý ngành du lịch, hướng tới đảm nhiệm nhiệm vụ của ngành “công nghiệp không khói” trong xu thế phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về du lịch nói chung và của từng địa phương đã có một số đề tài, như:
- Trần Quốc Nhật (1996), Phát triển du lịch ở Bà Rịa-Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Dương Thế Vinh (1996), Khai thác tiềm năng phát triển du lịch Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hoá (1997), Kinh tế du lịch Thừa Thiên -Huế, tiềm năng và phương hướng phát triển, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Hoàng Đức Cường (1999), Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG HCM.
- Dụng Văn Duy (2004), Du lịch trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình thuận, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), Kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hoá -Thực trạng và giải pháp phát triển, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh...
Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu liên quan đến dịch vụ du lịch ở thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, sự lựa chọn đề tài "Dịch vụ du lịch tại Thành phố Đà Nẵng" là cần thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích: Trên cơ sở lý luận về dịch vụ du lịch, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ du lịch Đà Nẵng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ du lịch ở thành phố Đà Nẵng, trong thời gian từ nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ: Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ du lịch ở Đà Nẵng.
- Đánh giá thực trạng dịch vụ du lịch Đà Nẵng trong giai đoạn 2001 đến 2005 và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Phương hướng và giải pháp phát triển dịch vụ du lịch Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ du lịch Đà Nẵng trong thời kỳ đổi mới, nhất là từ khi Thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị loại I trực thuộc Trung ương đến nay.
4.2. Thời gian: Từ 2001 đến 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành phố Đà Nẵng vào phát triển dịch vụ du lịch. Đồng thời, kế thừa những kết quả nghiên cứu về lĩnh vực dịch vụ du lịch của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp lôgíc với lịch sử, thống kê, tổng hợp và phân tích, so sánh... để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
- Góp phần chứng minh sự cần thiết khách quan và vai trò của phát triển dịch vụ du lịch ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất những giải pháp để phát triển dịch vụ du lịch Đà Nẵng trong giai đoạn 2006-2020.
- Góp vào danh mục tài liệu tham khảo phục vụ công tác chỉ đạo thực tiễn và giảng dạy, học tập ở các cơ sở đào tạo của địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA DỊCH VỤ DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, đặc biệt là từ 1950 - khi nền kinh tế thế giới được khôi phục và phát triển, thu nhập bình quân đầu người trên thế giới tăng không ngừng, đã làm cho nhu cầu giao lưu tham quan học tập, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí... cũng không ngừng tăng lên. Nhất là trong thời đại ngày nay, khi nhịp sống đại công nghiệp đưa con người vào những vòng xoáy hối hả của những toan tính bận rộn, thì nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn kết hợp với giao lưu quốc tế của cộng đồng càng trở nên bức thiết. Và nhờ đó, một số nước đã coi du lịch là một ngành kinh tế chủ lực tạo nguồn thu nhập đáng kể cho ngân sách, như Thái Lan, Trung Quốc, Tây Ban Nha... Từ đó nhiều nước đề ra những quốc sách hữu hiệu cho đầu tư và phát triển dịch vụ du lịch.
Khi điều kiện kinh tế chưa phát triển, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội mang tính nhân văn nhằm làm phong phú thêm nhận thức con người và dịch vụ du lịch là thoả mãn nhu cầu cho tầng lớp trên của xã hội kiếm được tiền ở một nơi và đi tiêu tiền ở một nơi khác. Điều kiện kinh tế phát triển hơn, người ta nhận thức được du lịch không còn là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà còn là một hoạt động kinh tế, trong đó những hoạt động dịch vụ phối hợp với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Khi kinh doanh du lịch phát triển, trở thành một hệ thống mang tính tổng hợp trên phạm vi vùng miền không chỉ của một quốc gia thì người ta coi du lịch là một ngành công nghiệp với toàn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp giá trị của các tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ, hàng hoá để tạo ra sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách.
Pháp lệnh Du lịch (2/1999) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam quy định: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [39].
Có thể hiểu, du lịch là một phạm trù kép; một mặt có ý nghĩa thông thường là sự di chuyển của con người với mục đích nghỉ ngơi giải trí, nhưng mặt khác nó bao hàm hệ quả kinh tế tự thân khi những dịch vụ hỗ trợ và cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách, trong sự di chuyển đó.
Với quan niệm trên, sản phẩm du lịch cũng mang những nét đặc trưng cơ bản không như các sản phẩm vật chất thuần tuý khác. Theo Từ điển du lịch (Tiếng Đức, Nxb Kinh tế Berlinh, 1984) định nghĩa: "Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng" [35]. Theo nghĩa hẹp, thì sản phẩm du lịch là những gì du khách bỏ tiền ra mua lẻ hoặc trọn gói trong chuyến đi của mình. Còn theo nghĩa rộng, đó là tổng hợp những sản phẩm vô hình và hữu hình do con người và thiên nhiên tạo ra, có khả năng thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách về nghỉ ngơi, giải trí và những hoạt động có ích khác.
Theo Từ điển du lịch, lữ hành, lưu trú và ăn uống, (Tiếng Anh, Nxb Butterworth Heinemann 1993) thì: Dịch vụ du lịch là kết quả của các hoạt động kinh tế được thể hiện trong sản phẩm vô hình (phân biệt với hàng hoá vật chất) như lưu trú, vận chuyển, dịch vụ tài chính, thông tin liên lạc, y tế và các dịch vụ cá nhân khác [36].
Theo điều 4, chương I Luật Du lịch Việt Nam “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [28, tr.2]. Tác giả luận văn tán thành với khái niệm này về dịch vụ du lịch.
Dịch vụ du lịch có những đặc điểm chung của dịch vụ: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng và khách hàng và thông qua việc đáp ứng nhu cầu khách hàng đó mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ đó. Ngoài ra, dịch vụ du lịch còn có các đặc điểm mang tính đặc thù:
Thứ nhất: Tính phi vật thể - đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du lịch. Người sử dụng dịch vụ không thể tiêu dùng trực tiếp dịch vụ đó trước khi mua nó, nói cách khác quá trình sản xuất ra dịch vụ cũng gắn liền với quá trình tiêu thụ nó. Dịch vụ đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng nó lại tồn tại dưới dạng phi vật chất nên người sử dụng chỉ có thể đánh giá được chất lượng của dịch vụ khi trực tiếp sử dụng nó. Đặc điểm quan trọng này buộc các nhà cung cấp phải có trách nhiệm trong việc tạo dựng thương hiệu thông qua cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, chân thực và khách quan về những tiện ích và ưu việt của dịch vụ đối với du khách để họ thực sự yên tâm và hài lòng về quyết định mua sản phẩm dịch vụ. Về phía du khách: phải thận trọng và cần có sự nhìn nhận, lựa chọn nhà cung cấp căn cứ trên uy tín thương hiệu, quảng cáo sản phẩm và tham khảo thêm những người đã sử dụng dịch vụ trước khi quyết định mua dịch vụ cho mình.
Thứ hai: Tính đồng thời trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Khác với các hàng hoá thông thường có quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra ở từng thời gian và địa điểm khác nhau, dịch vụ du lịch được sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra cùng lúc. Chính đặc điểm này quy định tính thời vụ trong loại hình kinh doanh du lịch và nó làm cho công tác dự báo của ngành du lịch thực sự trở thành một khoa học giúp các nhà hoạch định chiến lược nắm được cung - cầu trên thị trường mà có hướng đầu tư phù hợp. Trên thực tế có nhiều bất cập xảy đến trong quá trình quản lý và kinh doanh du lịch, nguyên nhân sâu xa chính vì chưa nắm thấu đáo tính chất đặc thù này.
Thứ ba: Khách hàng là một bộ phận của cả quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tính đặc thù này được quy định bởi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định nên không tạo ra khoảng cách giữa người tiêu dùng và người sản xuất dịch vụ. Nói cách khác, người tiêu dùng không chỉ hưởng thụ một cách thụ động sản phẩm dịch vụ được cung ứng, mà họ còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thông qua việc phản hồi của họ với nhà cung cấp về chất lượng và mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Thậm chí bằng kinh nghiệm và trình độ cảm nhận của mình, du khách còn là người trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhà cung cấp tạo ra những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Thứ tư: Quyền sở hữu không được chuyển giao khi mua và bán. Đây là một đặc thù riêng có của loại hình sản phẩm dịch vụ khi đem trao đổi trên thị trường. Vì là sản phẩm không thể di chuyển trong không gian, là sản phẩm phi vật thể và có tính đồng nhất trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nên khách hàng chỉ đang mua quyền sử dụng sản phẩm chứ không hề mua được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ đó. Khi quyền sử dụng của du khách không còn thì cũng là lúc nhà cung cấp toàn quyền sở hữu đối với sản phẩm dịch vụ đó.
Sản phẩm du lịch gồm: Dịch vụ du lịch và giá trị tài nguyên thiên nhiên
Dịch vụ du lịch gồm:
- Dịch vụ vận chuyển, nhằm đưa du khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch, từ các điểm du lịch này đến điểm du lịch khác hoặc trong phạm vi một điểm du lịch nào đó, bằng phương tiện nhất định.
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống bao gồm các dịch vụ phục vụ du khách nghỉ ngơi, thư giãn và lấy lại sức khoẻ trong hành trình du lịch của mình thông qua hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng... nơi khách dừng chân.
- Dịch vụ vui chơi giải trí: là loại hình giúp du khách đạt được sự thoả mãn cao trong mỗi chuyến đi. Bởi vậy, nên thời gian của du khách phần lớn được các nhà tổ chức chuyên nghiệp hướng đến là đưa khách tham quan các khu du lịch, các khu di tích, xem văn nghệ... thậm chí đến các sòng bạc, các bar café, sàn nhảy...
Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu được thoả mãn về tinh thần càng lấn át nhu cầu mang tính vật chất thuần tuý, do đó, nhu cầu đi du lịch ngày càng có xu hướng tăng cao trong cộng đồng dân cư. Nắm được điều này, các nhà kinh doanh du lịch càng nghiên cứu đầu tư vào dịch vụ giải trí sẽ càng thu được lợi nhuận cao. Thái Lan, Trung Quốc, Tây Ban Nha... là những quốc gia có kinh nghiệm và nhạy bén trong việc tập trung đầu tư cho dịch vụ này nên chỉ trong vòng vài thập niên đã nhanh chóng thu hút được tỉ lệ lớn khách du lịch đến từ các nước và nhờ đó đã đóng góp được một phần đáng kể ngoại tệ cho phát triển kinh tế đất nước.
Ví dụ: Thái Lan năm 2004 đón 11,6 triệu khách du lịch quốc tế, thu ngoại tệ đạt 9,6 tỷ USD. Khách du lịch nội địa đạt 74,8 triệu lượt khách, tạo thu nội tệ xấp xỉ 8 tỷ USD. Du lịch đóng góp cho GDP năm 2005 gần 15%. Ngoài ra, hoạt động du lịch đã tạo ra trên 1,3 triệu việc làm gián tiếp và trực tiếp cho xã hội [32].
Hoặc Trung Quốc: hiện nay là quốc gia có thu nhập từ du lịch quốc tế lớn nhất thế giới. Năm 2004, Trung Quốc đón 41,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế (nếu tính cả khách tham quan du lịch trong ngày là 109 triệu lượt), thu nhập ngoại tệ từ du lịch đạt 25,7 tỷ USD. Khách du lịch nội địa đạt 1,1 tỷ lượt khách, tạo thu nội địa tương đương 65,7 tỷ USD. Du lịch tạo ra 38,93 triệu việc làm gián tiếp và trực tiếp cho xã hội [32].
Cả hai cường quốc trên đều có ưu việt nổi trội trong hoạt động du lịch và có nhiều kinh nghiệm phát triển kinh doanh du lịch. Hai nước này đều luôn coi du lịch là quốc sách và có nhiều biện pháp nhằm tạo ra chiến lược sản phẩm du lịch tốt, trong đó coi trọng việc đầu tư đồng bộ các loại hình dịch vụ giải trí cho du khách.
- Dịch vụ mua sắm: thực tế đây cũng là hình thức giải trí không thể thiếu trong một chuyến đi du lịch của du khách, được thực hiện thông qua các siêu thị, cửa hàng, làng nghề truyền thống, hàng mỹ nghệ, tạp hoá, vải lụa...
- Dịch vụ trung gian và bổ sung khác: y tế, công nghệ thông tin, Internet, sửa chữa... tuy phụ trợ nhưng loại hình dịch vụ này cũng góp phần làm thoả mãn chuyến đi của du khách và tham gia vào việc tạo nên một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh nơi khách dừng chân.
Ngoài ra, sản phẩm du lịch còn bao gồm cả giá trị tài nguyên thiên nhiên - một bộ phận cấu thành quan trọng, nó đòi hỏi các nhà chuyên môn trong quản lý và điều hành phải biết phối hợp và điều tiết quá trình cung ứng sản phẩm du lịch một cách khoa học thực sự, mới đem lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời thoả mãn được nhu cầu của du khách.
Trong nền kinh tế hiện đại, tỉ trọng các ngành dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng, ở các nước tiên tiến có khi lên đến 75%, ở Việt Nam chiếm khoảng 40%. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã chỉ rõ “Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: Khu vực nông nghiệp khoảng 15-16%, công nghiệp -xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%” [15, tr.188].
1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển dịch vụ du lịch ở thành phố Đà Nẵng
Phát triển dịch vụ du lịch ở thành phố Đà Nẵng là một tất yếu khách quan, bởi Đà Nẵng hội tụ đủ những điều kiện, khả năng, thế mạnh là những nhân tố tác động đến sự phát triển mạnh mẽ lĩnh vực này, như:
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên: 1256,5km2. Dân số 781.023 người (2005) với các quận: Hải Châu,Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ và các huyện Hoà Vang, huyện đảo Hoàng Sa. Đà Nẵng nằm ở trung lộ của cả nước, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây tiếp giáp với các huyện Đại Lộc, Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam. Là thành phố có địa hình khá đa dạng, phía Bắc là đèo Hải Vân hùng vĩ, vùng núi cao phía Tây Bắc Đà Nẵng thuộc huyện Hoà Vang có núi Mang với độ cao 1708m và ngọn Bà Nà có độ cao 1487m so mặt biển. Phía Đông là bán đảo Sơn Trà hoang sơ và chuỗi các bãi tắm trải dài từ bản đảo Sơn Trà đến biển Non Nước. Phía Nam có danh thắng Ngũ Hành Sơn. Ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa có tiềm năng lớn về thuỷ sản.
Thành phố Đà Nẵng được hình thành từ năm 1306 nhưng trải qua những thăng trầm của lịch sử mãi tới năm 1836 Đà Nẵng mới thực sự thay thế Hội An trở thành một trung tâm thương mại, chính trị, văn hoá và là nơi giao tiếp với phương Tây của xứ Đàng Trong. Khi đó nơi đây là hải cảng quan trọng, là một trung tâm kinh tế của nước Việt xưa bởi vị trí địa lý đã gắn Đà Nẵng không chỉ trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên mà còn là nơi giao thương của Cao Miên và Lào với Việt Nam. Đà Nẵng có Cảng Tiên Sa hay còn gọi là Cảng Sâu và 09 cầu cảng quốc tế dọc theo sông Hàn. Sân bay quốc tế Đà Nẵng được hiện đại hoá, trong nhiều năm qua thực sự đã tạo cho Đà Nẵng thành một điểm đến quan trọng với các chuyến bay xuyên Việt và những đường bay trực tiếp quốc tế như Đà Nẵng - Băng Cốc, Đà Nẵng - Hồng Kông, Đà Nẵng - Xiêm Riệp, Đà Nẵng - Singapore... Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nối khu vực Đà Nẵng với cả nước hết sức thuận tiện.
1.1.2.2. Tiềm năng, thế mạnh của Đà Nẵng
Đến với Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp tham quan các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà... và thoả thích bơi lội trên các bãi biển trải dài hàng chục km, được coi là một trong 6 bãi biển sạch đẹp nhất của hành tinh. Đà Nẵng còn là trung điểm của “Hành trình Di sản Văn hoá thế giới”, chỉ trong bán kính chưa đầy 200 km, bạn đã có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 05 Di sản Văn hoá thế giới: Thánh địa Mỹ Sơn, Phố Cổ Hội An, Cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế và Di tích Động Phong Nha.
Có thể nói, tiềm năng du lịch của Đà Nẵng là hết sức phong phú và to lớn.
Trong những năm qua, nhất là từ khi Đà Nẵng trở thành Đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương, nơi đây được coi là điểm phát triển năng động với tốc độ cao trong khu vực, có cơ sở hạ tầng hoàn hảo, cơ chế đầu tư thông thoáng và hệ thống dịch vụ phụ trợ của du lịch ngày càng được cải thiện, phù hợp với một đô thị phát triển theo hướng hiện đại.
1.1.2.3. Các điều kiện kinh tế - xã hội khác: cũng là một ưu việt của Đà Nẵng khi định hướng phát triển dịch vụ du lịch:
Về dân số: Thành phố Đà Nẵng có gần 790.000 người và hơn 130.000 sinh viên học sinh đang theo học tại các trường Đại học, Cao Đẳng và dạy nghề trên địa bàn, ngoài ra phải kể đến trên 40.000 sinh viên, học sinh tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng và dạy nghề ra trường hàng năm, đó là nguồn lao động dồi dào cho các điểm dịch vụ được mở ra nếu có chính sách thu hút tốt.
Bảng 1.1: Dân số, lao động, xã hội
Đơn vị tính: người
Năm
2000
2002
2003
2004
2005
Dsố (31/12/05)
722.826
747.607
757.270
771.828
790.191
Nguồn LĐ
413.900
432.600
438.962
451.663
487.096
LLg lao động
330.827
348.997
355.820
370.978
386.457
Trong đó:
Công nhân KT
36.000
60.000
66.667
79.760
97.000
Trung học
15.000
20.000
23.333
26.154
29.027
Cao đẳng, ĐH
29.700
40.000
42.667
41.179
56.048
Khác
250.127
228.997
223.153
223.885
204.412
Nguồn: Niên giám thống kê Đà Nẵng 2005.
Theo cơ cấu dân số thống kê trên, số dân trong độ tuổi lao động rất cao, chiếm tỉ lệ bình quân trên 60%, trong đó lao động có đào tạo ở các cấp (trừ học sinh, sinh viên đang trên lớp học) thì lực lượng lao động có thể huy động được chiếm gần 80% và đây là tiềm năng cho các ngành dịch vụ mới mở ra khi có nhu cầu cao về lao động.
Điều đáng quan tâm nữa đó là vấn đề môi trường du lịch. Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi thành phố được tách ra thành đơn vị hành chính từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành đô thị loại I trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã có nhiều động thái tích cực nhằm cải thiện môi trường, cảnh quan và tập trung hết tâm sức cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, xây dựng nếp sống văn hoá trong mỗi tổ dân phố đến cộng đồng dân cư, xây dựng “Thành phố 5 không” và “3 có” với những tiêu chí đầy tính nhân văn... Đó cũng là yếu tố tạo ra động lực, thúc đẩy và tao điều kiện cho các ngành dịch vụ phát triển, trong đó có dịch vụ du lịch.
1.1.2.4. Về tài nguyên du lịch nhân văn
Đà Nẵng không chỉ là vùng đất được tiếp quản nền văn hoá Đại Việt từ phương Bắc xuống và giao thoa với văn hoá Chămpa phương Nam độc đáo từ cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI... mà Đà Nẵng còn là “nơi tiếp nhận và nhào nặn các luồng văn hoá để làm giàu thêm vốn văn hoá dân tộc” [25, tr.7]. Đây là một kho tàng đồ sộ chưa được khai thác nhiều cho hoạt động du lịch.
1.1.3. Vai trò của dịch vụ du lịch thể hiện trong việc hình thành cơ cấu kinh tế "Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp” của thành phố Đà Nẵng
1.1.3.1. Dịch vụ du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế trên địa bàn góp phần hình thành cơ cấu kinh tế: “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”
Ngành du lịch có tác động rất tích cực đến kinh tế thành phố và của từng vùng thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch.
Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh đến lĩnh vực lưu thông phân phối sản phẩm hàng hóa được sản xuất và lưu thông trong vùng, nhờ đó có tác động sâu sắc đến những lĩnh vực khác khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Đồng thời, khách du lịch là người nước ngoài hay trong nước đến, với số lượng tiền tệ tiêu dùng đem theo tất yếu sẽ làm cho cán cân thanh toán tại địa phương có sự đổi thay. Và nhờ đó góp phần làm sống động kinh tế vùng du lịch.
Mặt khác, thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hướng tích cực đến sự phát triển của những ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Khách du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa được phục vụ với chất lượng cao, chủng loại phong phú và hình thức, mẫu mã đẹp. Như vậy, chính du khách đã giúp phần định hướng cho sản phẩm được sản xuất ra không chỉ bảo đảm về chất lượng, chủng loại mà còn cả hình thức, bao bì, nhãn mác... Từ đó khuyến khích chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc và rộng rãi trong các ngành kinh tế của thành phố.
Ảnh hưởng của du khách đối với các ngành: viễn thông, ngân hàng, thương mại, xây dựng, văn hóa... cũng hết sức to lớn, nhất là trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế... Bởi chúng ta biết rằng trong số hàng triệu du khách đã đến với Đà Nẵng trong nhiều năm qua, ngoài đối tượng du lịch thuần túy còn có rất đông khách công vụ và thương gia đến tìm kiếm cơ hội làm ăn. Đối tượng này có nhu cầu đặc biệt cao về công nghệ thông tin, các điều kiện và phương tiện thanh toán hiện đại cũng như kết cấu hạ tầng thuận lợi. Việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên vào phục vụ du khách đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ và từ đó cũng kích thích phát triển tương ứng các ngành kinh tế có liên quan khác của thành phố.
Bảng 1.2: Chỉ số phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUAN VAN hc1.doc
- bia moi.doc