Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment: FDI) là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế chung của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện FDI là nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng quota xuất khẩu của nước nhận đầu tư để mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lý và trình độ tiếp thị giữa các quốc gia. Ngày nay, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng và điều kiện của mỗi nước mà hoạt động FDI cân bằng và song hành với việc thu hút FDI.
Việt Nam đến nay trải qua hơn 20 năm đổi mới đã và đang thành công trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Song dưới tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đứng trước việc là một thành viên của WTO, nhiều doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đã mạnh dạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện nay, DNVN đã có mặt tại nhiều nước và vùng lãnh thổ thuộc năm châu lục mà lớn nhất là Cộng hoà Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào.
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống từ lâu đời. Hai nước có chung 2.067km đường biên giới, sự gần gũi về trình độ phát triển và lịch sử văn hoá cùng với sự tương đồng về việc lựa chọn mục tiêu, con đường phát triển trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước trở thành một trong những nhân tố mang ý nghĩa quyết định tạo lập mối quan hệ hữu nghị Việt – Lào.
Với bề dày truyền thống hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và Lào cũng đã được thiết lập từ lâu, có nhiều bước phát triển và khá toàn diện. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngoài những lĩnh vực hợp tác truyền thống, hai bên tập trung chú ý nhiều hơn đến hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp của Việt Nam và Lào từ trung ương cho đến địa phương theo hướng thiết thực và hiệu quả. Ngay từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành, các DNVN đã tìm kiếm cơ hội đầu tư sang Lào nhất là một số doanh nghiệp tư nhân của những địa phương có đường biên giới với Lào đã thực hiện một số dự án FDI vào Lào theo thoả thuận hợp tác song phương giữa chính quyền địa phương hai nước. Từ khi Lào có Luật đầu tư nước ngoài (1988), FDI của DNVN vào Lào ngày càng tăng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI của DNVN vào Lào chưa tương xứng với mối quan hệ "đặc biệt" giữa hai nước. Đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập trên thế giới và tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định và chỉ rõ: "Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài” [7, tr.115].
128 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam vào Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment: FDI) là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế chung của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện FDI là nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng quota xuất khẩu của nước nhận đầu tư để mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lý và trình độ tiếp thị giữa các quốc gia. Ngày nay, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng và điều kiện của mỗi nước mà hoạt động FDI cân bằng và song hành với việc thu hút FDI.
Việt Nam đến nay trải qua hơn 20 năm đổi mới đã và đang thành công trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Song dưới tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đứng trước việc là một thành viên của WTO, nhiều doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đã mạnh dạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện nay, DNVN đã có mặt tại nhiều nước và vùng lãnh thổ thuộc năm châu lục mà lớn nhất là Cộng hoà Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào.
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống từ lâu đời. Hai nước có chung 2.067km đường biên giới, sự gần gũi về trình độ phát triển và lịch sử văn hoá cùng với sự tương đồng về việc lựa chọn mục tiêu, con đường phát triển trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước trở thành một trong những nhân tố mang ý nghĩa quyết định tạo lập mối quan hệ hữu nghị Việt – Lào.
Với bề dày truyền thống hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, quan hệ hợp tác kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và Lào cũng đã được thiết lập từ lâu, có nhiều bước phát triển và khá toàn diện. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngoài những lĩnh vực hợp tác truyền thống, hai bên tập trung chú ý nhiều hơn đến hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp của Việt Nam và Lào từ trung ương cho đến địa phương theo hướng thiết thực và hiệu quả. Ngay từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành, các DNVN đã tìm kiếm cơ hội đầu tư sang Lào nhất là một số doanh nghiệp tư nhân của những địa phương có đường biên giới với Lào đã thực hiện một số dự án FDI vào Lào theo thoả thuận hợp tác song phương giữa chính quyền địa phương hai nước. Từ khi Lào có Luật đầu tư nước ngoài (1988), FDI của DNVN vào Lào ngày càng tăng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI của DNVN vào Lào chưa tương xứng với mối quan hệ "đặc biệt" giữa hai nước. Đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập trên thế giới và tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định và chỉ rõ: "Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài” [7, tr.115].
Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam vào Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào” được tác giả chọn làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh chủ đề nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu khoa học được đăng tải như:
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung tâm thông tin công tác tuyên giáo, Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và những giải pháp chiến lược, Tạp chí Tư liệu báo cáo viên, số 10 , 2008 .
- Vũ Xuân Bình, Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn tiềm năng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6 ,2002 .
- Bua Khăm Thip Pha Vong, Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm 1999 – 2000, Quan hệ giữa Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Hữu Hiểu, Giải pháp tài chính thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4 ,2005.
- Lê Thị Thanh Huyền, Các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đầu tư ra nước ngoài, Tạp chí Tài chính, số 2 ,2006.
- Nguyễn Thị Hường, Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5 ,2006.
- Khay Kham Van Na Vong Sy, Mở rộng quan hệ kinh tế giữa Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với các nước láng giềng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002.
- Trần Lãm, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước ASEAN, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 12 (260), 1994.
- Nguyễn Thanh Long, Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Cămpuchia trong điều kiện mở rộng phân công lao động quốc tế XHCN, Luận án PTS, Hà Nội, 1987.
- Lê Tự Minh và Nguyễn Minh Phong, Hỗ trợ các doanh nhân Việt Nam đầu tư ở nước ngoài - sự cần thiết mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Thương mại, số 8 ,2003.
- Hà Phương, Thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài để chủ động hơn với thế giới, Tạp chí Nghiên cứu và Dự báo, số 16 ,2008.
- Đinh Trọng Thịnh, Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào Trung Quốc - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 344/1,2006.
- PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2006.
- Việt Tuấn, Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài - những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính, số 9, 2006.
Nhìn chung, các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả lý luận và thực tiễn về đầu tư nước ngoài. Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về FDI của DNVN vào CHDCND Lào dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số lý luận chung về FDI.
- Làm rõ sự cần thiết về đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2001 đến 2008 (có khảo sát hoạt động đầu tư trực tiếp của DNVN vào CHDCND Lào từ năm 1999 đến 2001).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các học thuyết kinh tế hiện đại; các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: trừu tượng hoá khoa học, phân tích tổng hợp, thống kê so sánh, lô gíc và lịch sử. Gắn lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI
1.1.1.1. Khái niệm FDI
FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): "Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một tác vụ đầu tư bao hàm một quan hệ dài hạn, phản ánh một lợi ích lâu bền của một thực thể cư ngụ tại một nước gốc(nhà đầu tư trực tiếp) đối với một thực thể cư ngụ tại một nuớc khác (doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư).”
Ngân hàng Pháp Quốc (Banque de France) định nghĩa:
Một đầu tư là đầu tư trực tiếp nước ngoài khi nào:
(a) Thiết lập được một pháp nhân hoặc một chi nhánh ở nước ngoài;
(b) Nắm giữ được một tỷ lệ có ý nghĩa về vốn, cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát việc quản lý doanh nghiệp nước ngoài tiếp nhận đầu tư (tham gia bằng hoặc trên 10%);
(c) Các khoản cho vay hoặc ứng trước ngắn hạn của nhà đầu tư cho công ty tiếp nhận đầu tư một khi đã thiết lập giữa hai bên mối quan hệ công ty mẹ và chi nhánh [30, tr.114].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dùng cho các khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận [3, tr.326].
Nghị định 78/2006/NĐ – CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chỉ rõ: "Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài”.
Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về FDI nhưng đa số các định nghĩa FDI đều bao hàm một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ đầu tư là người nước ngoài.
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ ba, mục đích của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm mục đích sinh lợi.
Tóm lại, FDI là hình thức chủ đầu tư nước ngoài bỏ ra toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn vào các dự án để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giành quyền quản lý và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ đã bỏ vốn ra đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài. FDI là quá trình trong đó một hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Yếu tố nước ngoài của đầu tư trực tiếp thể hiện sự khác nhau về mặt quốc tịch của các bên tham gia đầu tư với những đặc thù riêng về sự can thiệp của chủ đầu tư nước ngoài vào quá trình sản xuất kinh doanh; về tính chất lâu dài của dự án; về sự gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm… Mọi hoạt động FDI đều nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Đặc điểm của FDI
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế đưa vốn ra nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều mục đích khác nhau về kinh tế, chính trị hoặc mục đích nào khác… Nhưng dù với mục đích nào thì FDI đều có đặc điểm:
Thứ nhất, về nguồn vốn: chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu theo quy định của từng nước qua đó họ có quyền được trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn tham gia đầu tư. Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của nguồn vốn. Thay vì nhận được lãi suất trên số vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động đầu tư có hiệu quả.
Ở các nước phát triển nói chung, lượng vốn đầu tư phải chiếm trên 10% cổ phần của xí nghiệp nước ngoài thì mới được xem là đầu tư trực tiếp. Phần vốn tối thiểu thay đổi tuỳ theo từng nước từ 10 đến 25%. Có nước quy định là 25%, hoặc có nước quy định có cổ phần tuy dưới 25% nhưng nếu có một trong những điều kiện sau đây đều được xem là đầu tư trực tiếp: cử nhân viên quản lý hoặc nhân viên kỹ thuật đến xí nghiệp đầu tư, cung cấp kỹ thuật, cung cấp nguyên liệu; mua sản phẩm của xí nghiệp, giúp đỡ tiền vốn, cho vay hoặc đầu tư theo hình thức thương mại có hoàn trả [6, tr.12].
Vốn FDI thể hiện ở các hình thức: ngoại tệ, máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu, nhiên liệu, hàng hoá thành phẩm, hàng hoá bán thành phẩm; giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ; các tài sản khác.
Nguồn vốn FDI bao gồm vốn góp để hình thành vốn pháp định, vốn vay hoặc vốn bổ sung từ lợi nhuận của doanh nghiệp để triển khai mở rộng dự án.
Thứ hai, về quyền điều hành quản lý: chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc tham gia quản lý và điều hành quá trình thực hiện vận hành dự án đầu tư tuỳ theo tỷ lệ góp vốn. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc thuê người quản lý điều hành.
Thứ ba, về mặt chuyên môn: thông qua hoạt động FDI, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp thu khoa học công nghệ, bí quyết kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại của nước đi đầu tư hoặc nước đi đầu tư sẽ tận dụng được sự ưu tiên, điều kiện thuận lợi mà nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp dành cho mình để phát huy lợi thế về nguồn nhân lực trình độ cao, phương tiện đầu tư…mà khi đầu tư trong nước sẽ không có được.
Thứ tư, về mặt hoạt động: FDI đi vào sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ.
Thứ năm, về phân chia lợi nhuận: lợi nhuận thu được từ kết quả hoạt động đầu tư, lãi hoặc lỗ được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp khác cho nước tiếp nhận đầu tư theo quy định của nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.2. Các hình thức FDI
1.1.2.1. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có đặc điểm:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân người nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
- Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư nuớc ngoài.
- Chủ đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và các vấn đề liên quan để sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại.
1.1.2.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do một hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp chung vốn với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm:
- Về mặt pháp lý: Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức liên doanh do các bên tự thoả thuận, phù hợp với các quy định pháp luật của nước nhận đầu tư. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp.
- Về mặt tổ chức: Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà có mức góp vốn tối đa và tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước ngoài. Quy định mức góp vốn tối đa nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc và cũng do nước sở tại không quá thiếu vốn. Quy định mức góp vốn tối thiểu nhằm mục đích thu hút càng nhiều càng tốt (Việt Nam quy định mức góp vồn tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh). Hội đồng quản trị của doanh nghiệp là mô hình chung cho mọi hình thức doanh nghiệp liên doanh không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực, ngành nghề. Đây là cơ quan quản lý cao nhất của doanh nghiệp liên doanh.
- Về mặt kinh tế: luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích một cách hài hoà giữa các bên trong liên doanh và cả các bên đứng sau liên doanh.
- Về tổ chức điều hành: quyết định sản xuất kinh doanh dựa vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư mà lựa chọn, vận dụng nguyên tắc nhất trí hay quá bán.
1.1.2.3. Đầu tư theo hợp đồng
Đầu tư theo hợp đồng bao gồm các hình thức:
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh(Contractual Business co-operation: BBC)
BBC là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho bên tiếp nhận đầu tư.
BBC phải có sự tham gia của bên hợp danh là nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BBC để hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thoả thuận giá trị trong hợp đồng. Hợp đồng này khác với các loại hợp đồng khác đó là nó phân chia kết quả kinh doanh và trách nhiệm của các bên cụ thể được ghi trong hợp đồng không áp dụng đối với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao nhận sản phẩm, mua thiết bị trả chậm và các hợp đồng khác không phân chia lợi nhuận. Nội dung chính của BBC bao gồm: quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh; mục tiêu và phạm vi kinh doanh; sản phẩm tiêu thụ chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm trong nước; quyền và nghĩa vụ của các bên hợp danh; đóng góp của các bên hợp danh, phân chia kết quả kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình kinh doanh, các bên hợp danh được phép thoả thuận thành lập ban điều phối để theo dõi giám sát công việc thực hiện hợp đồng. Mỗi bên hợp danh phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật và có nghĩa vụ tài chính tuỳ theo bên tiếp nhận đầu tư quy định. Trong quá trình hoạt động các bên hợp danh được quyền chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác nhưng phải ưu tiên cho các đối tượng đang hợp tác.
Đặc điểm của hình thức BBC:
- Hai bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng phân định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi.
- Không thành lập pháp nhân mới.
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thoả thuận, khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý.
- Vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong bản hợp đồng.
* Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (Building – Opeate – Transfer: BOT).
BOT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đặc điểm của hình thức BOT:
- Nguồn vốn thực hiện: 100% vốn nước ngoài hoặc bằng vốn nước ngoài cộng với vốn của chính phủ, của các tổ chức, cá nhân nước tiếp nhận đầu tư.
- Các chủ đầu tư tổ chức xây dựng, kinh doanh trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
- Chuyển giao cho nước tiếp nhận đầu tư toàn bộ công trình, dự án đã xây dựng, kinh doanh.
* Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (Building – Transfer – Opeate: BTO).
BTO là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và đảm bảo có lãi.
* Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (Building – Transfer:BT).
BT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý hoặc thanh toán cho nhà đầu tư nước ngoài theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
1.1.2.4. Đầu tư thực hiện sáp nhập và mua lại(Mergers & Acquisition: M&A)
FDI thông qua M&A là hình thức nhà đầu tư nước ngoài được quyền sáp nhập và mua lại công ty, chi nhánh ở nơi đầu tư. Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật khác có liên quan của nước tiếp nhận đầu tư.
Theo pháp luật Việt nam hiện hành, hoạt động M&A được hiểu là hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp và được xem xét dưới nhiều góc độ: như một trong các hành vi tập trung kinh tế được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh, như một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được điều chỉnh theo pháp luật về doanh nghiệp và như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp được điều chỉnh theo pháp luật về đầu tư.
Luật Đầu tư năm 2005 lần đầu tiên quy định “Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp” như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp. Theo đó, đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: (i) đóng góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; (ii) mua toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động ; (iii) mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập doanh nghiệp.
Trên thế giới M&A có một số đặc điểm: (i) hầu hết các vụ sáp nhập, mua lại này đều được diễn ra giữa các công ty của các nước phát triển. Theo Báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, chỉ có 8% các vụ sáp nhập lớn diễn ra ở các quốc gia nằm ngoài các nước công nghiệp hóa. Các vụ sáp nhập lớn thường diễn ra ở Anh và Mỹ và bên cạnh việc điều tiết bằng luật cạnh tranh là điều chỉnh việc mua bán sáp nhập bằng các tiền lệ; ở châu Âu lục địa thường chỉ diễn ra các vụ sáp nhập, mua bán nhỏ; (ii) chủ yếu là sáp nhập, mua bán các công ty nhỏ và có tính chất gia đình; (iii) các vụ sáp nhập, mua lại thường chỉ tập trung vào một số ít ngành ngân hàng, công nghiệp dầu khí, các công ty dược phẩm, công nghệ thông tin và ngành công nghiệp ô tô với sự chi phối bởi những hoàn cảnh cụ thể liên quan đến một ngành công nghiệp nhất định. Ở các ngành khác, các vụ M&A lớn ít diễn ra. Vì vậy, chúng ta cần phải thận trọng khi kết luận rằng chúng ta đang chứng kiến một xu hướng toàn cầu đang lan rộng và có ảnh hưởng tới tất cả các ngành công nghiệp; (iiii) hình thức M&A không chỉ chiếm tỉ trọng lớn trong FDI của các nước phát triển mà còn là một hình thức đầu tư hiệu quả để thâm nhập vào nền kinh tế các nước đang phát triển và chuyển đổi. Ảnh hưởng của nó luôn mang tính hai mặt và không đồng đều. Một mặt nó giúp các công ty lớn mở rộng thị trường, tăng quyền sở hữu nhưng mặt khác lại đặt ra cho nước nhận đầu tư phải cân nhắc giữa cái giá phải trả và cái lợi được hưởng.
Trên thế giới, M&A được xem xét, điều tiết chủ yếu từ góc độ của pháp luật về cạnh tranh. Nhìn chung các điều khoản về sáp nhập, mua lại trong Luật cạnh tranh ở các nước trên thế giới không có tính bắt buộc. Cụ thể là không cần thiết phải rà soát một cách hệ thống và thông qua tất cả các vụ sáp nhập, mua lại. Yêu cầu thông báo về mọi vụ sáp nhập, mua lại sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có cho cơ quan quản lý, làm phát sinh các khoản chi phí không hợp lý và làm chậm quá trình sáp nhập, mua lại. Có thể rút ra kết luận như sau:
- Quan niệm phổ biến về M&A trên thế giới được hiểu bao gồm không chỉ sáp nhập, mua lại mà còn gồm cả hợp nhất và giành quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp.
- Phân tích về M&A, chúng ta thấy đó không phải là hoạt động đầu tư theo nghĩa thông thường mà về bản chất đó là sự tối ưu hoá đầu tư. Chỉ có mua lại, giành quyền kiểm soát mới thực sự là bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư.
1.1.3. Vai trò của FDI
1.1.3.1. Đối với nước đầu tư
FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và thương mại ở các nước đầu tư.
Thứ nhất, FDI giúp cho nước đầu tư sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính "dư thừa ” tương đối trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư; đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các quốc gia này sẽ đem các nguồn lực có lợi thế của mình để tiến hành đầu tư và có thể sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn khi đầu tư trong nước. Với môi trường kinh doanh mới, lành mạnh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trình độ quản lý doanh nghiệp, quản lý quá trình đầu tư ngày càng hiện đại nên những nguồn lực “dư thừa” mà nhà đầu tư đem đi đầu tư sẽ được khai thác, sử dụng có hiệu quả hơn. Các nguồn lực sẽ được khai thác tối đa trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn ths.doc
- bia.doc