Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất là xây dựng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC. Trong đó có vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp xã người dân tộc thiểu số như người dân tộc Khmer ở các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói riêng cần được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và tổng kết thực tiễn.
Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Thực tế hiện nay chất lượng của đội ngũ CBCC của hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều hạn chế ít được đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó xây dựng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Chính vì vậy, pháp lệnh sữa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh cán bộ, công chức (năm 2003) đã qui định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị ở cơ sở được cụ thể hoá theo Nghị định số: 114/2003/NĐ -CP, Ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Từ đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và CBCC cấp xã cơ sở trở thành một nhiệm vụ trước mắt cấp bách vừa là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài.
Nhận thức tầm quan trọng đó trong thời gian qua, các địa phương trong cả nước đã triển khai thực hiện Quyết định số 874/1996/QĐ - TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 07/05/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005. Thực hiện tiếp theo là Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010. Do vậy phần lớn đội ngũ cán bộ các cấp, và CBCC cấp xã từng bước được trang bị kiến thức lý luận chính trị, nhà nước pháp luật và quản lý hành chính. Họ đã cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần làm thay đổi rõ rệt bộ mặt thành thị và nông thôn ở nước ta.
Tuy nhiên, những hạn chế lâu nay về công tác CBCC nói chung và CBCC người dân tộc thiểu số vẫn chưa được khắc phục như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ ba, ĐCSVN khoá VIII đánh giá “Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng “Vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới" [13, tr.68]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắng với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới;." [13, tr.71].
Như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ bảy, ĐCSVN khoá IX đã đánh giá: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở vùng dân tộc và miền núi còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm” [17, tr.34] và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá “ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẫm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ” [18, tr.86].
Trước thực trạng về trình độ, năng lực của CBCC đặc biệt là đội ngũ CBCC người dân tộc thiếu số của đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN đã đề ra: “ củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số ” [18, tr.122]. Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng Quyết định số: 34/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010.
Trà Vinh là một tỉnh có đông đồng bào Khmer (đứng hàng thứ hai ở các tỉnh Tây Nam Bộ sau Sóc Trăng) hiện nay, có khoảng 30% dân số là đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trên hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh đã tạo nên một truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc.
Thời gian qua Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC tỉnh nhà. Nhưng nhìn chung đội ngũ CBCC cấp xã, xét về tiêu chuẩn, trình độ được đào tạo, bồi dưỡng chỉ đáp ứng được một phần nào. Đặc biệt CBCC là người dân tộc Khmer còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý hành chính nhà nước và trình độ LLCT. Hiện nay, đại đa số CBCC cấp xã là người Khmer làm việc theo kinh nghiệm thực tiễn, thói quen, vì vậy, trong quá trình thực thi công việc gặp nhiều khó khăn, nhất là những sự việc nhạy cảm như đất đai, chế độ chính sách, dân tộc, tôn giáo
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Tôi chọn đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh” để làm luận văn thạc sỹ Luật.
116 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất là xây dựng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC. Trong đó có vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp xã người dân tộc thiểu số như người dân tộc Khmer ở các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói riêng cần được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và tổng kết thực tiễn.
Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Thực tế hiện nay chất lượng của đội ngũ CBCC của hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều hạn chế ít được đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó xây dựng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Chính vì vậy, pháp lệnh sữa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh cán bộ, công chức (năm 2003) đã qui định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị ở cơ sở được cụ thể hoá theo Nghị định số: 114/2003/NĐ -CP, Ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Từ đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và CBCC cấp xã cơ sở trở thành một nhiệm vụ trước mắt cấp bách vừa là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài.
Nhận thức tầm quan trọng đó trong thời gian qua, các địa phương trong cả nước đã triển khai thực hiện Quyết định số 874/1996/QĐ - TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 07/05/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005. Thực hiện tiếp theo là Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010. Do vậy phần lớn đội ngũ cán bộ các cấp, và CBCC cấp xã từng bước được trang bị kiến thức lý luận chính trị, nhà nước pháp luật và quản lý hành chính. Họ đã cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần làm thay đổi rõ rệt bộ mặt thành thị và nông thôn ở nước ta.
Tuy nhiên, những hạn chế lâu nay về công tác CBCC nói chung và CBCC người dân tộc thiểu số vẫn chưa được khắc phục như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ ba, ĐCSVN khoá VIII đánh giá “Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng “Vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới" [13, tr.68]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắng với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới;..." [13, tr.71].
Như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ bảy, ĐCSVN khoá IX đã đánh giá: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở vùng dân tộc và miền núi còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm” [17, tr.34] và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá “…Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẫm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ” [18, tr.86].
Trước thực trạng về trình độ, năng lực của CBCC đặc biệt là đội ngũ CBCC người dân tộc thiếu số của đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN đã đề ra: “…củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số…” [18, tr.122]. Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng Quyết định số: 34/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010.
Trà Vinh là một tỉnh có đông đồng bào Khmer (đứng hàng thứ hai ở các tỉnh Tây Nam Bộ sau Sóc Trăng) hiện nay, có khoảng 30% dân số là đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trên hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh đã tạo nên một truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc.
Thời gian qua Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC tỉnh nhà. Nhưng nhìn chung đội ngũ CBCC cấp xã, xét về tiêu chuẩn, trình độ được đào tạo, bồi dưỡng chỉ đáp ứng được một phần nào. Đặc biệt CBCC là người dân tộc Khmer còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý hành chính nhà nước và trình độ LLCT. Hiện nay, đại đa số CBCC cấp xã là người Khmer làm việc theo kinh nghiệm thực tiễn, thói quen, vì vậy, trong quá trình thực thi công việc gặp nhiều khó khăn, nhất là những sự việc nhạy cảm như đất đai, chế độ chính sách, dân tộc, tôn giáo…
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Tôi chọn đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh” để làm luận văn thạc sỹ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực CBCC nói chung và CBCC dân tộc nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đây cũng là lĩnh vực được chọn làm đề tài của luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ triết học và luật học. Có thể đưa ra một số công trình, đề tài và bài viết tiêu biểu của các tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn này.
- Luận văn tiến sỹ Hồ Văn Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996).
- Luận văn thạc sỹ Trần Ngọc Điệp: Đào tạo cán bộ, công chức của tỉnh Cần Thơ (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1999).
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ): Chính quyền xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Luận văn thạc sỹ Vy Văn Vũ: Vấn đề quy hoạch đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế của tỉnh Đồng Nai (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000).
- Luận văn thạc sỹ Phạm Quốc Tế: Đổi mới tổ chức và hoạt động chính quyền xã hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001).
- Luận văn thạc sỹ Cao Thị Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động chính quyền cấp xã ở Thái Bình (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001).
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Luận văn tiến sỹ Phạm Công Khâm: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002).
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Hậu: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003).
- Luận văn thạc sỹ Trần Văn Tài: Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp xã trên địa bàn Thành phố Cần Thơ-Thực trạng và giải pháp (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004).
- Luận văn thạc sỹ Lê Thị Thu Hiền: Phát huy vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào Khmer của chính quyền cấp xã của tỉnh Trà Vinh hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006).
- Lê Chi Mai: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp (Tạp chí Cộng sản số 20/2002).
- Lê Thị Vân Hạnh: Đào tạo, bồi dưỡng công chức để nâng cao năng lực thực thi (Tạp chí quản lý nhà nước số 103/2004).
Các công trình và các bài viết trên đã đề cập nhiều đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào đề cập - nghiên cứu đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã có đông đồng bào dân tộc Khmer như ở tỉnh Trà Vinh. Nghiên cứu đề tài này trong tình hình thực tế người dân tộc Khmer chiếm tỷ trọng không nhỏ trong thành phần dân cư không chỉ ở tỉnh Trà Vinh mà còn ở nhiều tỉnh khác ở Tây Nam bộ, vì vậy không thể coi vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh là một trường hợp cá biệt. Đồng thời những kết quả nghiên cứu thể hiện trong các công trình nêu trên cần được phát triển vận dụng khi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về CBCC nói chung và CBCC cấp xã nói riêng.
- Xác định những vấn đề lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã.
- Nhận diện các yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh đề xuất phương hướng giải pháp tăng cường đào tạo, bồi dưỡng CBCC là người dân tộc Khmer.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer trên cơ sở đó làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò CBCC cấp xã nói chung và CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer nói riêng, khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer và những yêu cầu có tính tất yếu khách quan của việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh.
- Phân tích thực trạng đội ngũ CBCC và công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra các nhân tố có tính tích cực thúc đẩy; các nhân tố có tính "rào cản" tiến trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer và đánh giá được ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân ưu điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh.
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng đội ngũ CBCC và công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, đưa ra những quan điểm và giải pháp có tính đặc thù để thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là đội ngũ CBCC cấp xã nói chung và CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Nghiên cứu về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung vận dụng vào quá trình hình thành xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Trên quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển về số lượng của đội ngũ CBCC này đáp ứng việc xây dựng chính quyền cấp xả ở tỉnh Trà Vinh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đội ngũ CBCC trong hệ thống chính trị cấp xã bao gồm: cán bộ chuyên trách, công chức chuyên môn CBCC không chuyên trách người dân tộc Khmer cấp xã, người trong quy hoạch dự kiến tạo nguồn cho các chức danh cấp xã.
- Phạm vi không gian: tỉnh Trà Vinh.
- Về đánh giá thực trạng đội ngũ CBCC cấp xã chỉ giới hạn trong phạm vi thời gian: 2003 đến hết năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung; nhưng chủ yếu là ở địa phương đặc biệt là ở cấp cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu liên quan, phương pháp so sánh và phỏng vấn trực tiếp các đối tượng là CBCC người dân tộc Khmer đang theo học các lớp tại Trường Chính trị tỉnh Trà Vinh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của luận văn là sự đóng góp bước đầu cho cách tiếp cận mới nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã cho người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Các quan điểm và giải pháp nêu trong luận văn có thể áp dụng nhằm tăng cường nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CBCC người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, học tập của các đối tượng học viên của các trường Chính trị, các cơ sở đào tạo cán bộ thuộc các tỉnh Tây Nam bộ và là tài liệu tham khảo cho CBCC ở Trà Vinh.
7. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài gồm 03 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC KHMER
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC KHMER
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của cấp xã
Khái niệm về cấp xã:
Ở Việt Nam hiện nay theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) các đơn vị hành chính lãnh thỗ ở địa phương được chia làm 3 cấp.
Cấp tỉnh gồm: Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cấp huyện gồm: Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Cấp xã gồm: Xã, phường, thị trấn.
Theo phân cấp hành chính thì cấp xã, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Cấp xã, được xác định là cấp cơ sở, chính vì thế, khi chúng ta nói đến cấp cơ sở là muốn nói đến cấp xã.
Tương ứng với mỗi đơn vị hành chính ở địa phương được quy định như trên là một cấp chính quyền (gọi là chính quyền địa phương) một hệ thống các cơ quan thành lập nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ở địa phương; thực hiện chức năng cai quản và phục vụ của Nhà nước ở một vùng lãnh thỗ nhất định.
Cấp xã là đơn vị hành chính cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp quản lý các mặt đời sống của xã hội. Vì vậy muốn thực hiện quản lý tốt các mặt nói trên cần phải có những con người đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ muốn đạt được những tiêu chuẩn trên thì phải thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Đặc điểm của cấp xã:
Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở bởi dưới chính quyền cấp xã không có chính quyền cấp thấp hơn, mặc dù hiện nay có tổ chức, thôn, buôn, làng, ấp, khóm, phum sóc, tổ dân phố… song đây không phải là một cấp độc lập có ngân sách, con dấu cũng như tư cách pháp nhân mà là tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư, các trưởng thôn, bản, ấp, tổ dân phố là cầu nối giữa chính quyền với dân.
Cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân, trực tiếp chăm lo, giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chính của nhân dân. Cấp xã, nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội ổn định an ninh chính trị ở nông thôn thành hiện thực trong cuộc sống. Đồng thời đây là nơi bắt nguồn cung cấp kinh nghiệm cho những điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách ấy, cái đúng, cái sai, sự thành công hay thất bại của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Trên địa bàn dân cư, không chỉ có sự quản lý tổ chức của chính quyền cấp xã mà còn có hoạt động mang tính chất tự quản của cộng đồng dân cư. Ngoài ra hoạt động quản lý hành chính Nhà nước của chính quyền cấp xã còn chịu sự tác động của các mối quan hệ như: Huyết thống, dòng tộc, phong tục, tập quán của từng địa phương. Vì vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương mà cơ cấu CBCC cho đủ thành phần, nam, nữ, dân tộc từ đó mới tạo được sức mạnh tổng hợp, hoạt động có hiệu quả, mà năng lực. Trình độ quản lý CBCC là thước đo lòng tin của nhân dân ở địa phương đối với Đảng và nhà nước.
Cấp xã là điểm “dừng chân” của mọi công tác Đảng, Nhà nước và các ngành trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội và đời sống; trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc tôn giáo trong việc thi hành pháp luật và trong việc xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương. Đồng thời cấp xã là nơi phản ánh trực tiếp tâm tư, tình cảm, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên thông qua các tổ chức và CBCC cấp xã.
1.1.2. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức nói chung ở Việt Nam
Khái niệm cán bộ:
Từ “cán bộ” được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng phổ biến trong thời ký kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu, từ cán bộ được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở trên. Dần dần từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly để phân biệt với nhân dân.
Theo từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ một từ tiếng Pháp được dịch sang tiếng Nhật … (như vậy, từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, chuyển sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam). Trong từ điển Nhật- Việt, từ cán bộ cũng được dùng tương tự như ở Trung Quốc, có nghĩa là ở hạng cao (trong một đoàn thể) là yếu nhân (nhân vật quan trọng) … nghĩa là từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó được dịch ra (cadre). Trong tiếng Pháp cũng như tiếng Anh, từ này có nhiều nghĩa. Tựu trung có hai nghĩa chủ yếu được chuyển vào từ cán bộ của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh) cái khuôn, nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong một tổ chức làm thành một nòng cốt.
Cũng như hiện tượng chung của ngôn ngữ, từ cán bộ khi du nhập vào nước ta đã được áp dụng theo thực tiễn tâm lý- văn hoá Việt Nam nên đã biến đổi không còn nguyên như nghĩa gốc, tuy nhiên cái hàm nghĩa: “Bộ khung”, “người làm nòng cốt”, “người chỉ huy” luôn được lưu giữ vào nhận thức.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ coi như những người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự.
Trong từ điển tiếng việt, cán bộ được định nghĩa là:
Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, đảng và đoàn thể.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ.
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
Một là, dùng để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cấp cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt đảng viên thường, đoàn viên, hội viên;
Hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trở lên (cán bộ tiểu đội, cán bộ trung đoàn,..vv) là sĩ quan từ cấp úy trở lên.
Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan Nhà nước thuộc ngành hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hoá - xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểulà những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng, ban, vụ, cục vv…)
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó, là nòng cốt, là chỉ huy.
Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, “cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [37, tr.17-20].
Khái niệm công chức:
Trong khoa học hành chính khái niệm công chức chưa tìm thấy được một định nghĩa chung cho tất cả các mô hình hành chính. Vì vậy theo tài liệu so sánh hành chính các nước ASEAN do Giáo sư Đoàn Trọng Truyến chủ biên, khi đề cập đến phạm vi công chức trong các mô hình công vụ công chức trên thế giới đã đưa ra nhận định:
Công chức là một khái niệm mang tính lịch sử. Nội dung của nó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của mỗi quốc gia và vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể, vì vậy không có một định nghĩa chung về công chức cho tất cả các quốc gia. Thậm chí ngay trong một quốc gia, ở từng thời kỳ phát triển khác nhau, thuật ngữ này cũng mang những nội dung khác nhau [38, tr.84].
Cũng vì thế mà ở Việt Nam mỗi thời kỳ khác nhau khái niệm công chức được định nghĩa khác nhau. Theo điều 1 Quy chế công chức ban hành bởi sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, đã quy định công chức là: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng do Chính phủ quy định”.
Trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, tuy không có văn bản nào bãi bỏ sắc lệnh số 76/SL, nhưng nước ta không tiếp tục thực hiện Quy chế công chức mà chuyển sang thực hiện chế độ cán bộ. Tại Nghị định số: 26/CP ngày 30 tháng 6 năm 1960 của Chính phủ thì phân loại tổ chức, phân loại chức vụ của cán bộ viên chức thuộc khu vực hành chính, sự nghiệp. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng chế độ cán bộ được áp dụng thống nhất trong cả nước. Theo chế độ này thì tất cả những người được tuyển dụng vào biên chế để làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các công ty, nhà máy, xí nghiệp, công-nông, thường đều gọi chung là cán bộ công nhân viên.
Chính vì vậy, trong tài liệu về hành chính Nhà nước, PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển đã đưa ra nhận xét: “Cả một thời gian dài khái niệm công chức vẫn chưa được xác định rõ, vẫn đặt trong phạm trù “cán bộ” nói chung” [23, tr.148].
Để khắc phục phạm vi đối tượng quá rộng, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số: 169/1991/NĐ-HĐBT ngày 25 tháng 5 năm 1991 về công chức Nhà nước và đưa ra định nghĩa công chức Nhà nước “Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay ở địa phương, ở trong nước hay ở nước ngoài, được xếp vào một ngạch và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Để đáp ứng với yêu cầu kiện toàn và chuẩn hoá đội ngũ CBCC gắn liền với quá trình đổi mới, ngày 26 tháng 02 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh cán bộ, công chức. Từ đó trong tài liệu một số thuật ngữ hành chính do PGS.TS Bùi Thế Vĩnh chủ biên xuất bản năm 2000 đã đưa ra khái niệm:
Công chức là những người được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên làm việc liên tục trong cơ quan Nhà nước (hoặc cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân hay công an nhân dân), được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [42, tr.126].
Như vậy, CBCC nước ta không những chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh cán bộ, công chức mà đồng thời còn chịu sự điều chỉnh của nhiều loại văn bản pháp quy khác và Điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội tuỳ theo thuộc đối tượng nào. Theo Pháp lệnh này thì vẫn chưa có sự phân biệt giữa cán bộ và công chức và các đối tượng đang thực thi công vụ ở một cấp hành chính (xã, phường, thị trấn) vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh.
Để tiếp tục khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 29 tháng 4 năm 2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ - Công chức. Theo Pháp lệnh Cán bộ - Công chức sửa đổi bổ sung này đã có sự phân biệt giữa công chức hành chính và viên chức sự nghiệp đồng thời bổ sung them 3 nhóm đối tượng trong đó có 2 nhóm đối tượng cấp hành chính cơ sở.
1.1.2.2. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Ở Việt Nam khái niệm CBCC cấp xã mới được hình thành từ khi Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành vào ngày 29 tháng 4 năm 2003 Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn. Trong đó có Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về CBCC xã, phường, thị trấn quy định về chức danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ, quyền lợi, những việc không được làm, chế độ chính sách và quản lý CBCC xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là CBCC cấp xã hoặc cấp cơ sở) [10]. Đội ngũ cán bộ cơ sở gồm có: Cán bộ chuyên trách cấp xã, công chức cấp xã và cán bộ không chuyên trách cấp xã.
Cán bộ chuyên trách cấp xã: Là cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử: Gồm cán bộ chủ chốt của cấp ủy Đảng, HĐND, UBND, những người đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
Cô