Hải quan Việt Nam được thành lập ngày 10/9/1945. Trải qua hơn 60 năm xây dựng trưởng thành, Hải quan Việt Nam đã hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao cho là: thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam đã góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Từ nay đến năm 2020, sẽ có rất nhiều sự kiện lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Đây là giai đoạn đất nước thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, là mốc thời gian Việt Nam đã hội nhập tương đối toàn diện vào kinh tế thế giới và khu vực, khi đó đã là Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) bao gồm tất cả 10 thành viên ASEAN, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), của Diễn đàn Kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC), của Diễn đàn hợp tác toàn diện Á - Âu (ASEM). Thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, đòi hỏi ngành Hải quan phát triển hơn nữa, hoạt động có tính định hướng với các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn; nhanh chóng hiện đại hóa, tự động hóa các mặt công tác, nhất là trong thủ tục thông quan hàng hóa, đổi mới hệ thống tổ chức nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Trước yêu cầu cấp thiết như vậy, ngành Hải quan đã triển khai thực hiện "Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2004 - 2006", và xây dựng "Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" để Hải quan Việt Nam phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Năm 2005, Chính phủ đã phê duyệt Dự án hiện đại hóa Hải quan với nguồn vốn vay từ Ngân hàng thế giới (WB). Theo các chương trình này, đến năm 2010 Hải quan Việt Nam phấn đấu đạt với trình độ của Hải quan các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN, thể hiện: lực lượng hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu; hệ thống thông quan trong các khâu nghiệp vụ hải quan về cơ bản là tự động hóa trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, có trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, tạo mụi trường thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thỳc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo nguồn thu cho ngõn sỏch quốc gia, bảo vệ xó hội và an ninh quốc gia, thực thi phỏp luật hải quan một cỏch minh bạch và cụng bằng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hệ thống tổ chức Hải quan Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ba cấp: Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố; Chi cục Hải quan. Quá trình hoạt động đã phát huy được ưu thế đáp ứng kịp thời việc quản lý và phục vụ sự phát triển nhanh chóng của các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu trên cả nước, khắp các tỉnh có cửa khẩu cũng như không có cửa khẩu mà có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư liên doanh. Tuy nhiên, do những đặc điểm mang tính đặc thù của hoạt động hải quan là luôn gắn với yếu tố giao lưu thương mại quốc tế nên với mô hình như hiện nay đã và đang bộc lộ sự bất cập như: có những đơn vị cấp Cục hải quan tỉnh, thành phố quá lớn; có một số Cục hải quan tỉnh quá nhỏ; Cục Hải quan là cấp trung gian, chủ yếu quản lý cán bộ; còn công tác nghiệp vụ chủ yếu do Hải quan cấp Chi cục thực hiện. Bộ máy tham mưu giúp việc của cơ quan Tổng cục được hình thành và tổ chức nhằm thực hiện phương thức quản lý cũ, thủ công, trước yêu cầu đổi mới tinh giảm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức bộ máy cũng như đáp ứng các yêu cầu quản lý của mô hình hải quan hiện đại trong lộ trình cải cách và hiện đại hóa cần phải đổi mới tổ chức các cơ quan này cho phù hợp.
97 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận đổi mới tổ chức hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hải quan Việt Nam được thành lập ngày 10/9/1945. Trải qua hơn 60 năm xây dựng trưởng thành, Hải quan Việt Nam đã hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao cho là: thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam đã góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Từ nay đến năm 2020, sẽ có rất nhiều sự kiện lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Đây là giai đoạn đất nước thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, là mốc thời gian Việt Nam đã hội nhập tương đối toàn diện vào kinh tế thế giới và khu vực, khi đó đã là Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) bao gồm tất cả 10 thành viên ASEAN, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), của Diễn đàn Kinh tế khu vực châu á - Thái Bình Dương (APEC), của Diễn đàn hợp tác toàn diện á - Âu (ASEM). Thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, đòi hỏi ngành Hải quan phát triển hơn nữa, hoạt động có tính định hướng với các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn; nhanh chóng hiện đại hóa, tự động hóa các mặt công tác, nhất là trong thủ tục thông quan hàng hóa, đổi mới hệ thống tổ chức nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Trước yêu cầu cấp thiết như vậy, ngành Hải quan đã triển khai thực hiện "Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2004 - 2006", và xây dựng "Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" để Hải quan Việt Nam phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Năm 2005, Chính phủ đã phê duyệt Dự án hiện đại hóa Hải quan với nguồn vốn vay từ Ngân hàng thế giới (WB). Theo các chương trình này, đến năm 2010 Hải quan Việt Nam phấn đấu đạt với trình độ của Hải quan các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN, thể hiện: lực lượng hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu; hệ thống thông quan trong các khâu nghiệp vụ hải quan về cơ bản là tự động hóa trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, có trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho cỏc hoạt động thương mại hợp phỏp, tạo mụi trường thuận lợi trong việc thu hỳt đầu tư nước ngoài, thỳc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo nguồn thu cho ngõn sỏch quốc gia, bảo vệ xó hội và an ninh quốc gia, thực thi phỏp luật hải quan một cỏch minh bạch và cụng bằng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hệ thống tổ chức Hải quan Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ba cấp: Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố; Chi cục Hải quan. Quá trình hoạt động đã phát huy được ưu thế đáp ứng kịp thời việc quản lý và phục vụ sự phát triển nhanh chóng của các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu trên cả nước, khắp các tỉnh có cửa khẩu cũng như không có cửa khẩu mà có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư liên doanh... Tuy nhiên, do những đặc điểm mang tính đặc thù của hoạt động hải quan là luôn gắn với yếu tố giao lưu thương mại quốc tế nên với mô hình như hiện nay đã và đang bộc lộ sự bất cập như: có những đơn vị cấp Cục hải quan tỉnh, thành phố quá lớn; có một số Cục hải quan tỉnh quá nhỏ; Cục Hải quan là cấp trung gian, chủ yếu quản lý cán bộ; còn công tác nghiệp vụ chủ yếu do Hải quan cấp Chi cục thực hiện. Bộ máy tham mưu giúp việc của cơ quan Tổng cục được hình thành và tổ chức nhằm thực hiện phương thức quản lý cũ, thủ công, trước yêu cầu đổi mới tinh giảm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức bộ máy cũng như đáp ứng các yêu cầu quản lý của mô hình hải quan hiện đại trong lộ trình cải cách và hiện đại hóa cần phải đổi mới tổ chức các cơ quan này cho phù hợp.
Từ những lý do nêu trên cho thấy đổi mới hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng các yêu cầu hiện đại hóa là một yêu cầu cấp thiết mang tính khách quan. Nhưng đổi mới xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn như thế nào là vấn đề cần nghiên cứu một cách đầy đủ và nghiêm túc. Vì vậy, tác giả chọn đề tài " Cơ sở lý luận đổi mới tổ chức hải quan theo mụ hỡnh hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay " để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay hiện đại hóa hải quan, ứng dụng công nghệ tiến tiến trong các lĩnh vực công tác hải quan là những vấn đề mang tính thời sự. Chỉ tính từ năm 2003 đến nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, nhiều đề án, kế hoạch đã được nghiên cứu và triển khai ứng dụng trong lĩnh vực hoạt động của ngành Hải quan, cụ thể:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Xây dựng chiến lược phát triển ngành hải quan đến năm 2010 (Mã số 01-N2003, Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trương Chí Trung - Thứ trưởng Bộ Tài chính, kiêm Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Hải quan phù hợp với các cam kết quốc tế mà Hải quan Việt Nam ký kết tham gia (Mã số 02-N2003; Chủ nhiệm đề tài: TS. Vũ Ngọc Anh - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ngành Hải quan đến năm 2010 (Mã số 04-N2003 Chủ nhiệm đề tài: Vũ Quang Vinh - Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Nghiên cứu một số mô hình quản lý hải quan hiện đại tại các nước phát triển, đề xuất các giải pháp vận dụng vào điều kiện Việt Nam (Mã số 05-N2003, Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Toàn - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Nghiên cứu tổng quan về địa vị pháp lý, thẩm quyền của Hải quan trong hoạt động quản lý nhà nước giai đoạn đến năm 2010 (Mã số 06-N2003, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Hồng - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 tại Hải quan cảng biển quốc tế (Mã số 05-N2004, Chủ nhiệm đề tài: Trần Thoang - Cục Hải quan Đà Nẵng);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Nghiên cứu vận dụng Công ước KYOTO sửa đổi năm 1999 vào thực tiễn hoạt động của Hải quan Việt Nam và xây dựng lộ trình tham gia (Mã số 03-N2004; Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Trọng Hùng - Phó Vụ trưởng Vụ Giám sát quản lý);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Nghiên cứu xây dựng mô hình hệ thống công nghệ thông tin thực hiện thủ tục hải quan điện tử (Mã số 06-N2005; Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Công Bình - Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin);
- Đề tài khoa học cấp ngành: Hoàn thiện mô hình hoạt động kiểm tra sau thông quan (Mã số 07-N2005; Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Viết Hồng - Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan);
- Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa Hải quan giai đoạn 2004 - 2006, ban hành kèm theo Quyết định 810/QĐ-BTC, ngày 16/3/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Đề án thực hiện thí điểm thủ tục Hải quan điện tử tại Cục Hải quan thành phố Hải Phòng và Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg, ngày20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ;
- Một số suy nghĩ về việc sắp xếp lại mạng lưới tổ chức Chi cục Hải quan cửa khẩu, của ThS. Chu Văn Nhân - Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định đăng trên Bản tin Nghiên cứu Hải quan, số 12/2005
Tất cả các công trình nghiên cứu, đề án và các bài viết trên tuy chưa đề cập một cách trực tiếp đến đổi mới tổ chức của Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại, nhưng đã gián tiếp đưa ra các mục tiêu, phương hướng, luận cứ khoa học, các giải pháp nhằm từng bước cải cách, chuẩn hóa hoạt động Hải quan mang tính chuyên nghiệp chuyên sâu, hoạt động minh bạch có hiệu quả theo yêu cầu hội nhập quốc tế.
Đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu trực diện nội dung: Cơ sở lý luận đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Các công trình đã nghiên cứu trên sẽ tạo thuận lợi cho tác giả trong việc tiếp cận với mô hình Hải quan hiện đại; có cách nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ về sự cần thiết phải đổi mới tổ chức Hải quan; sẽ cung cấp những thông tin quan trọng trong đề ra các giải pháp đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn xác định nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tổ chức Hải quan Việt Nam từ ngày thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1945 đến nay;
- Tổ chức Hải quan được nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc nơi có tổ chức hải quan; ở cả ba cấp Hải quan Tổng cục, cấp Cục, cấp Chi cục. Quá trình nghiên cứu sẽ sử dụng số liệu minh chứng tại một số các Cục Hải quan tỉnh, thành phố điển hình và các đơn vị Vụ, Cục thuộc Tổng cục Hải quan.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn nghiên cứu đưa ra các quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
* Nhiệm vụ luận văn:
- Phân tích cơ sở lý luận đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay;
- Đánh giá về ưu điểm tồn tại của hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam trong quá trình phát triển;
- Đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn tiếp cận phương pháp luận của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mácxít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm nổi bật đặc điểm, nội dung, yêu cầu khách quan của đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam hiện nay;
- Đánh giá đúng thực trạng về hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam, chỉ ra những bất cập trước yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới theo các tiêu chí của mô hình hải quan hiện đại.
- Đưa ra các luận chứng trong việc đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình hải quan hiện đại ở Việt Nam.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tư liệu tham khảo phục vụ cho yêu cầu thực tiễn của việc đổi mới hệ tổ chức của Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cụ thể là tổ chức bộ máy Hải quan Vùng; quy hoạch lại mạng lưới cấp Chi cục hải quan cửa khẩu; tổ chức lại các đơn vị Vụ, Cục giúp việc thuộc Tổng cục Hải quan.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức Hải quan theo mô hình Hải quan hiện đại ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tổ chức, tổ chức hành chính nhà nước
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức
Tổ chức được hiểu theo hai nghĩa: một là, xem tổ chức như một thực thể, chẳng hạn người ta thường gọi doanh nghiệp, trường học, bệnh viện hay cơ quan nhà nước là tổ chức; hai là, xem đó là một hoạt động, chẳng hạn xem tổ chức là một chức năng quản lý.
Theo nghĩa thứ nhất, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều phân hệ có những mối liên hệ hữu cơ hợp lý, rõ ràng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong một tổng thể, phát sinh một lực tổng hợp tác động cùng chiều lên một đối tượng nhằm đạt những mục tiêu đã định.
Thuật ngữ tổ chức lúc đầu bặt nguồn từ sinh vật học, được lý giải như là bộ phận tổ thành của khí quản, coi tổ chức như là kết cấu tế bào có chức năng nhất định, như tổ chức thân thể con người chia thành tổ chức xương cốt, tổ chức cơ bắp, tổ chức thần kinh, tổ chức dưới da... Những cái đó đối với vật chất đều là tổ chức tự nhiên có thể thành lập không cần sự trợ giúp của lực lượng bên ngoài.
Tùy theo thời gian qua đi, sự tiến bộ của xã hội, nhận thức của con người không ngừng sâu sắc thêm, quan niệm về tổ chức từ sự lý giải truyền thống về ý nghĩa đối với vật tự nhiên dần dần đưa vào xã hội loài người. Đó là tổ chức do con người thành lập như tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức Đảng, tổ chức đoàn thể...
Hình thái các loại tổ chức trên thế giới rất đa dạng, nhưng có một nét khái quát có tính phổ biến mang một tên gọi chung: tổ chức là một nhóm sự vật kết hợp lại theo hình thức cơ cấu và quy luật vận động đã định. Gọi là cơ cấu đã định là chỉ quan hệ hay hình thức liên kết giữa bộ phận và tổng thể, giữa các bộ phận với nhau trong nội bộ tổ chức. Gọi là quy luật vận động là chỉ ảnh hưởng trao đổi thông tin, năng lượng và vật chất giữa bộ phận và tổng thể, giữa tổ chức với sự vận động bên ngoài. Tình hình này đều thích ứng với giới tự nhiên, giới sinh vật và xã hội loài người.
Theo nghĩa thứ hai, tổ chức là một chức năng của quản lý thể hiện ở việc thực hiện các chức năng nhất định, chủ yếu là kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Chức năng tổ chức gắn bó chặt chẽ với chức năng kế hoạch. Chức năng kế hoạch xác định cần làm gì, tổ chức tạo điều kiện để thực hiện kế hoạch. Nghĩa là xem tổ chức là phương tiện hay yếu tố cho các tài nguyên nhân lực hay vật lực gắn liền với nhau để tạo ra một hệ thống nhất định, ấn định những hoạt động cần thiết nhằm đạt mục tiêu đã định như chỉ huy, phối hợp, kiểm tra.
Định nghĩa nói trên, thường thiên về tổ chức xã hội - một tập thể được hình thành theo quan hệ qua lại và nguyên tắc hoạt động đã định, để quản lý một mục tiêu nào đó. Hàm nghĩa của tổ chức xã hội dựa trên nội dung của các điểm sau:
- Xây dựng tổ chức là một hành vi có mục đích, là để thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Con người là động vật cao cấp có tư tưởng, có ý chí, hành vi của con người luôn có tính mục đích rõ ràng, vì thế nếu không có mục tiêu chung thì không thể hình thành tập thể.
- Tất cả các tổ chức đều tồn tại trong môi trường bên ngoài riêng biệt; môi trường này ảnh hưởng rất lớn đến hình thái, công năng, kết cấu, sự vận hành của tổ chức, tiến hành trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin với tổ chức. Môi trường bên ngoài, về cơ bản quyết định địa vị, giá trị và phạm vi hoạt động của tổ chức.
- Về bản chất, tổ chức là một quan hệ đặc thù giữa con người; nó hình thành do một loại hành vi qua lại nào đó của con người, nhờ đó con người có thể phân biệt mới quan hệ qua lại như: quan hệ nghề nghiệp, quan hệ chức vụ khác nhau... Đương nhiên, loại quan hệ con người này không phải lộn xộn, lung tung; nó có đặc điểm là: có mục tiêu tổ chức đã định, nó phản ánh công năng của tổ chức, là linh hồn của tổ chức; có sự phân công đã định nghĩa là mọi người đều được phân công theo các góc độ hoạt động khác nhau; có trật tự đã định và nguyên tắc hoạt động hoặc trạng thái vận hành ổn định, nó phản ánh quan hệ tổ chức động.
- Tổ chức là một loại tập thể đang phát triển và thay đổi. Mọi tổ chức đều là hệ con người trong hệ thống xã hội, và còn là hệ thống mở, thay đổi tùy theo sự thay đổi của môi trường. Vì thế, tổ chức trước sau phải duy trì sự cân bằng động để thích ứng với sự thay đổi và biến đổi của môi trường bên ngoài. Đặc biệt, sự phát triển nhanh chóng của xã hội đương đại, của khoa học kỹ thuật, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, quy mô tổ chức không ngừng mở rộng, nhân viên tăng lên, hàng hóa đổi mới, nhu cầu con người không ngừng thay đổi; tất cả những điều này đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với tổ chức; chỉ có không ngừng thay đổi, tổ chức mới có thể thích ứng với tình hình mới, có thể đảm nhiệm trách nhiệm của tổ chức.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức hành chính nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm về tổ chức hành chính
Tổ chức hành chính là bộ phận tổ thành quan trọng của tổ chức xã hội; xét về tính chất, nó là tổ chức xã hội mang tính chính trị. Có thể hiểu tổ chức hành chính theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Tổ chức hành chính theo nghĩa hẹp là cơ quan chấp hành chính trong chính phủ. Tổ chức hành chính theo nghĩa rộng được lý giải khác nhau về mức độ rộng của nó. Tổ chức hành chính theo nghĩa rộng là tất cả bộ máy làm việc công của quốc gia. Nếu quan niệm rộng hơn nữa thì bao gồm mọi cơ cấu tổ chức công, tư có quy mô tương đối lớn trừ những đơn vị tiến hành thao tác nghiệp vụ cụ thể như: phân xưởng, tổ nhóm, quầy hàng, phòng thí nghiệm... Như vậy, những cơ quan quản lý đảm nhiệm việc quyết định chính sách và chấp hành chức năng đều được coi là tổ chức hành chính.
1.1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của tổ chức hành chính
- Tính chính trị: Tổ chức hành chính nhà nước là bộ phận tổ thành quan trọng của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước, là chủ thể chấp hành quyền lực quốc gia, thực hiện quản lý các công việc kinh tế xã hội, nó còn là bộ phận tổ thành quan trọng của thể chế chính trị xã hội, thể hiện sự tốt xấu của thể chế chính trị. Vì thế, xét về tổng thể, tổ chức hành chính đều mang tình chính trị, V.I. Lênin đã từng cho rằng "chính trị" là tiến hành một loạt hoạt động quản lý đối với công việc của Nhà nước và xã hội. Theo ý nghĩa đó, tính chính trị của tổ chức hành chính càng thêm rõ ràng. Tổ chức hành chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cái nút của mối liên hệ trực tiếp giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân. Vấn đề ăn mặc, đi ở, sinh lão bệnh tử cho đến giáo dục, văn hóa, vệ sinh và các mặt sản xuất và đời sống nhân dân đều có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với các loại tổ chức hành chính của Nhà nước; hiệu suất của tổ chức hành chính tốt hay xấu đều trực tiếp liên quan đến sự hơn thiệt của quần chúng nhân dân, quan hệ đến sự hưng thịnh, suy thoái của đất nước và sự ổn định về cục diện chính trị. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa cần được thể hiện ở tính ưu việt của tổ chức hành chính, cần có một hệ thống hành chính nhà nước liêm khiết, có hiệu suất cao.
- Tính xã hội: Tổ chức hành chính của bất cứ một chế độ Nhà nước nào đều đảm nhiệm chức năng quản lý công việc công cộng chung của xã hội. Muốn duy trì sự thống trị chính trị, ổn định trật tự xã hội, giai cấp thống trị phải quản lý công việc công cộng của xã hội. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, đặc điểm tính xã hội của tổ chức hành chính nhà nước càng thêm rõ ràng, biểu thị ở sự tăng cường không ngừng phạm vi và mức độ can thiệp của Chính phủ các nước vào các công việc công cộng về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa giáo dục, y tế, giao thông, bưu điện, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường... Chức năng có tính công cộng chung của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, dù xét về lý luận hay từ thực tiễn đều cần được phát triển và tăng cường, tính xã hội của tổ chức hành chính.
- Tính phục vụ: Tổ chức hành chính nhà nước với tính cách là một thực thể của thượng tầng kiến trúc, ban đầu nảy sinh từ nhu cầu phát triển của hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội khác. Chức năng cơ bản của nó là cung cấp dịch vụ mang tính chất quản lý cho các hoạt động để chúng phát triển một cách nhịp nhàng và có hiệu quả hơn. Vì thế, tổ chức hành chính là một loại phương tiện cho sự vận hành và phát triển của xã hội, nhưng không phải không có mục đích nếu tổ chức hành chính dị hóa thành mục tiêu xã hội thì sẽ làm nảy sinh một căn bệnh hành chính vì hành chính. Tổ chức hành chính đương đại là làm cho tổ chức hành chính trở lại tính phục vụ của nó. Tổ chức hành chính phải thích ứng và phục vụ cho cơ sở kinh tế, phục vụ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân và của cả xã hội. Đồng thời, xét từ quan hệ giữa hành chính và lập pháp trong thể chế chính trị nhà nước, tổ chức lập pháp là cơ quan quyền lực của Nhà nước, tổ chức hành chính là cơ quan chấp hành của tổ chức lập pháp, hành chính phải phục vụ lập pháp, tổ chức hành chính phải phục vụ việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Đặt hành chính cao hơn pháp chế là một tệ xấu mà xã hội pháp chế không thể chấp nhận. Đặc biệt, tổ chức hành chính và nhân viên của Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là "đày tớ, công bộc" của nhân dân, lấy phục vụ nhân dân, phục vụ lợi ích quốc gia, phục vụ lợi ích xã hội làm tôn chỉ. Tính phục vụ là thuộc tính cơ bản của tổ chức hành chính.
- Tính pháp chế: Tổ chức hành chính nhà nước là cơ cấu thay mặt Nhà nước hành xử quyền hành chính theo luật, có tính pháp chế. Đó là đặc điểm rõ ràng mà tổ chức hành chính khác với các tổ chức xã hội khác. Pháp chế hóa tổ chức hành chính là một tiêu chí của sự tiến bộ của xã hội loài người. Tổ chức hành chính Việt Nam được xây dựng theo quy định của "Luật tổ chức Nhà nước". Tổ chức hành chính phải căn cứ vào quy định của pháp luật hành xử chức quyền. Người lãnh đạo chủ yếu của tổ chức hành chính được bầu và bổ nhiệm theo pháp luật, tác động của nhân viên công chức phải tuân theo các quy định của "Pháp lệnh công chức". Tổ chức hành chính trong quá trình hành xử quyền hành chính phải áp dụng biện pháp, các biện pháp hành chính và kinh tế theo quy định của pháp luật. Tóm lại, pháp chế được quán triệt trong tất cả các khâu của quá trình quản lý hành chính.
- Tính quyền uy: Tổ chức hành chính dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, hành xử quyền hành chính theo Hiến pháp và pháp luật, bao gồm chế định các văn bản hành chính, áp dụng các biện pháp hành chính đối với xã hội, thực hiện quản lý hành chính các công việc của xã hội. Điều đó làm cho việc quản lý có tính ràng buộc phổ biến và tính cưỡng chế chung. Các loại tổ chức các cấp và công dân thuộc phạm vi quản lý của tổ chức hành chính phải tuân thủ mọi mệnh lệnh của nó, không được chống lại. Tính quyền uy của tổ chức hành chính không phải nảy sinh trực tiếp bởi địa vị của nó là cơ quan hành chính nhà nước mà là do nó được ủy quyền của cơ quan lập pháp Nhà nước và việc pháp chế hóa quản lý hành chính.
Từ khái niệm về tổ chức nói chung, khái niệm về tổ chức hành chính và các đặc trưng cơ bản của tổ chức hành chính có thể rút ra các nội dung chính về cơ sở hình thành nên tổ chức hành chính như sau:
- Dưới góc độ chính trị: Tổ chức hành chính nhà nước là bộ phận của bộ máy Nhà nước, đại diện cho Nhà nước, là chủ thể chấp hành quyền lực quốc gia, thực hiện quản lý các công việc kinh tế xã hội. Tổ chức hành chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cái nút của mối liên hệ trực tiếp giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa cần được thể hiện ở tính ưu việt của tổ chức hành chính, cần có một hệ thống hành chính nhà nước liêm khiết, có hiệu suất cao. Như vậy, cơ sở để hình thành nên tổ chức hành chính bắt nguồn sứ mệnh chính trị của giai cấp cầm quyền là cần phải có một tổ chức để thực hiện sứ mệnh chính trị của mình.
- Dưới góc độ xã hội: Bất cứ một chế độ nhà nước nào đều phải đảm nhiệm chức năng quản lý công việc công cộng chung của xã hội như: duy trì sự thống trị chính trị, ổn định trật tự xã hội; các công việc công cộng về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa giáo dục, y tế, giao thông, bưu điện, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường... những nhiệm vụ có tính công cộng chung của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, dù xét về lý luận hay từ thực tiễn đều cần được phát triển và tăng cường. Như vậy, xét dưới góc độ khách quan thì trước yêu cầu của xã hội đặt ra là: phải làm gì? Mục đích của việc làm đó như thế nào? Để giải quyết nó thì ai sẽ làm?... và chính việc trả lời câu hỏi ai làm là cơ sở để hình thành nên tổ chức. Tổ chức hành chính nhà nước với tính cách là một thực thể của thượng tầng kiến trúc, ban đầu nảy sinh từ nhu cầu phát triển của hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội khác. Chức năng cơ bản của nó là cung cấp dịch vụ mang tính chất quản lý cho các hoạt động để chúng phát triển một cách nhịp nhàng và có hiệu quả hơn. Vì thế, tổ chức hành chính là một loại phương tiện cho sự vận hành và phát triển của xã hội. Tổ chức hành chính phải thích ứng và phục vụ cho cơ sở kinh tế, phục vụ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân và của cả xã hội. Đồng thời, xét từ quan hệ giữa hành chính và lập pháp trong thể chế chính trị nhà nước, tổ chức lập pháp là cơ quan quyền lực của Nhà nước, tổ chức hành chính là cơ quan chấp hành của tổ chức lập pháp, hành chính phải phục vụ lập pháp, tổ chức hành chính phải phục vụ việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Dưới góc độ pháp lý: Tổ chức hành chính nhà nước là cơ cấu thay mặt Nhà nước hành xử quyền hành chính theo luật, có tính pháp chế. Đó là đặc điểm rõ ràng mà tổ chức hành chính khác với các tổ chức xã hội khác.. Tổ chức hành chính Việt Nam được thành lập theo quy định của "Luật tổ chức Nhà nước". Tổ chức hành chính được hình thành và trở thành một thực thể thực sự trong một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh phải bắt nguồn dựa trên cơ sở một quyết định mang tính pháp lý. Dưới góc độ pháp lý cơ sở hình thành nên tổ chức sẽ phải trả lời các câu hỏi: căn cứ vào đâu để thành lập? Tổ chức được thành lập là loại tổ chức gì? Chức năng nhiệm vụ ra làm sao? Việc tổ chức thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- Muc luc.doc