Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; thường xuyên đề ra những chủ trương, chính sách tích cực nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/03/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài khẳng định: “ Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” [5,tr.147]. Đồng thời nhấn mạnh: “ Công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn dân ta” [5,tr.148].
Hiện có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam sinh sống ở gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Cũng như mọi cộng đồng dân cư khác, cộng đồng NVNONN có nhu cầu rất lớn được thu nhận thông tin hằng ngày về tình hình đất nước, quê hương, về tình hình quốc tế. Hơn thế nữa, là những người Việt Nam giàu tình cảm đối với quê hương, xứ sở, nhiều người ra đi do những biến cố lịch sử nên người Việt xa Tổ quốc lại càng có nhu cầu tiếp nhận thông tin từ trong nước. Tuy nhiên, với một cộng đồng lớn, trải rộng ở nhiều quốc gia như vậy nên các phương tiện truyền thông trong nước gặp không ít khó khăn trong việc cung cấp thông tin cho họ. Suốt một thời gian dài chúng ta còn lúng túng trong công tác này. Cho nên, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng báo chí trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng. Trong khi đó, cộng đồng NVNONN tiếp nhận một lượng thông tin khổng lồ về Tổ quốc mình qua hệ thống đài, báo của nước ngoài thông qua các lăng kính và quan điểm khác nhau. Số liệu của các cơ quan chức năng cho biết hiện “ trên thế giới có tới trên 400 tờ báo, tạp chí, 82 nhà xuất bản và tới 49 đài phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt với thời lượng phát sóng hàng chục giờ mỗi ngày ” [4,tr.33]. Một số phần tử cơ hội chính trị, phản động lưu vong cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài đã dựng nên nhiều tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình có nội dung xấu nhằm chống phá nước ta. Chúng dùng mọi thủ đoạn: gây nhiễu thông tin, bóp méo, xuyên tạc sự thật, thậm chí kích động lòng hận thù, gây rối, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, nhân danh “dân chủ”,”nhân quyền” hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, tạo sự hồ nghi về hình ảnh Đất nước - Con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế và cộng đồng NVNONN.
Thực hiện nhiệm vụ: “ Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đánh giá, cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, truyền thanh dành cho đồng bào ta ở nước ngoài phù hợp với tâm lý, tình cảm của đồng bào, có biện pháp hiệu quả đưa chương trình đến với đông đảo cộng đồng người Việt Nam tại các nước” [48, tr.164], cùng với các phương tiện thông tin đối ngoại khác, kênh truyền hình VTV4 của Đài Truyền hình Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng kịp thời việc đưa thông tin một cách “chính thống”, nhanh nhạy, trung thực về mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của Việt Nam đến với thế giới và NVNONN. Qua đó, giúp cho cộng đồng hiểu một cách đầy đủ, chính xác hơn về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới trên đất nước ta.
121 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của Đài truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; thường xuyên đề ra những chủ trương, chính sách tích cực nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/03/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài khẳng định: “ Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” [5,tr.147]. Đồng thời nhấn mạnh: “ Công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn dân ta” [5,tr.148].
Hiện có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam sinh sống ở gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Cũng như mọi cộng đồng dân cư khác, cộng đồng NVNONN có nhu cầu rất lớn được thu nhận thông tin hằng ngày về tình hình đất nước, quê hương, về tình hình quốc tế. Hơn thế nữa, là những người Việt Nam giàu tình cảm đối với quê hương, xứ sở, nhiều người ra đi do những biến cố lịch sử nên người Việt xa Tổ quốc lại càng có nhu cầu tiếp nhận thông tin từ trong nước. Tuy nhiên, với một cộng đồng lớn, trải rộng ở nhiều quốc gia như vậy nên các phương tiện truyền thông trong nước gặp không ít khó khăn trong việc cung cấp thông tin cho họ. Suốt một thời gian dài chúng ta còn lúng túng trong công tác này. Cho nên, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng báo chí trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng. Trong khi đó, cộng đồng NVNONN tiếp nhận một lượng thông tin khổng lồ về Tổ quốc mình qua hệ thống đài, báo của nước ngoài thông qua các lăng kính và quan điểm khác nhau. Số liệu của các cơ quan chức năng cho biết hiện “ trên thế giới có tới trên 400 tờ báo, tạp chí, 82 nhà xuất bản và tới 49 đài phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt với thời lượng phát sóng hàng chục giờ mỗi ngày ” [4,tr.33]. Một số phần tử cơ hội chính trị, phản động lưu vong cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài đã dựng nên nhiều tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình có nội dung xấu nhằm chống phá nước ta. Chúng dùng mọi thủ đoạn: gây nhiễu thông tin, bóp méo, xuyên tạc sự thật, thậm chí kích động lòng hận thù, gây rối, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, nhân danh “dân chủ”,”nhân quyền” hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, tạo sự hồ nghi về hình ảnh Đất nước - Con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế và cộng đồng NVNONN.
Thực hiện nhiệm vụ: “ Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đánh giá, cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, truyền thanh dành cho đồng bào ta ở nước ngoài phù hợp với tâm lý, tình cảm của đồng bào, có biện pháp hiệu quả đưa chương trình đến với đông đảo cộng đồng người Việt Nam tại các nước” [48, tr.164], cùng với các phương tiện thông tin đối ngoại khác, kênh truyền hình VTV4 của Đài Truyền hình Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng kịp thời việc đưa thông tin một cách “chính thống”, nhanh nhạy, trung thực về mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của Việt Nam đến với thế giới và NVNONN. Qua đó, giúp cho cộng đồng hiểu một cách đầy đủ, chính xác hơn về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới trên đất nước ta.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của VTV4, cần làm tốt công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn việc xây dựng, sản xuất chương trình, khả năng chuyển tải thông tin và khả năng tiếp nhận của khán giả. Bởi vậy, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài “ Chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài” của Đài Truyền hình Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Đến nay, đã có Đề án nâng cao chất lượng kênh truyền hình VTV4 của Ban Truyền hình Đối ngoại - Đài THVN; luận văn: Nâng cao hiệu quả chương trình thời sự đối ngoại của Đài Truyền hình Việt Nam của tác giả Đào Huy Hoàng, Khoa Báo chí - Học viện Báo chí và Tuyên truyền đề cập đến các bản tin thời sự bằng tiếng nước ngoài phát trên các kênh VTV1, VTV2 và VTV4 của THVN. Ngoài ra, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về lý luận và thực tiễn chương trình truyền hình dành cho NVNONN.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn chương trình truyền hình dành cho NVNONN của Truyền hình Việt Nam. Qua đó rút ra những ưu, nhược điểm của các chương trình; đưa ra nhận xét, đánh giá mang tính lý luận; đề xuất, kiến nghị những giải pháp về nội dung, hình thức thể hiện và qui trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình truyền hình phù hợp với đối tượng công chúng là NVNONN.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Khảo sát, tổng hợp, phân tích và đánh giá chất lượng, hiệu quả của các chương trình truyền hình dành cho NVNONN trên sóng VTV4, Đài THVN; tiến hành khảo sát nghiên cứu ý kiến khán giả truyền hình là những NVNONN để từ đó chỉ ra đặc điểm tâm lý tiếp nhận của đối tượng công chúng đặc biệt này; khảo sát hoạt động nghề nghiệp của những người tham gia vào quy trình tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình dành cho NVNONN; tổng kết, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài do Ban Truyền hình Đối ngoại - Đài THVN trực tiếp sản xuất hoặc khai thác từ các nguồn, được phát trên sóng VTV4; Quy trình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình dành cho NVNONN.
- Phạm vi nghiên cứu là một số chương trình cơ bản mang tính đặc thù của VTV4, gồm các chuyên mục : Việt Nam hôm nay; Việt Nam - Đất nước - Con người; Nhìn từ Hà Nội; Con Lạc cháu Hồng; Gặp gỡ khán giả VTV4; Việt Nam qua con mắt người nước ngoài; Dạy tiếng Việt; Bài hát theo yêu cầu. Thời gian khảo sát từ tháng 01 năm 2004 đến hết tháng 06 năm 2005.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta; các kiến thức lý luận báo chí, thống kê, xã hội học…
- Nghiên cứu văn kiện, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến công tác báo chí, thông tin đối ngoại và NVNONN; điều tra xã hội học; khảo sát thực tiễn, phỏng vấn, thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu. Trong đó phương pháp được sử dụng chủ đạo là tổng hợp và phân tích tài liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài.
- Làm rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của chương trình Truyền hình dành cho NVNONN phát sóng trên VTV4 của Đài THVN trong hệ thống thông tin đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng chất lượng cả về nội dung và hình thức thể hiện của các chương trình truyền hình dành cho NVNONN trên VTV4 một cách tương đối toàn diện, có hệ thống.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình truyền hình dành cho đối tượng công chúng là NVNONN.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Rút ra những kinh nghiệm thực tiễn và một số vấn đề lý luận nhằm nâng cao hiểu biết phục vụ cho công tác chuyên môn.
- Làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong việc hoạch định những chính sách và xây dựng qui trình sản xuất phù hợp nhằm nâng cao chất lượng chương trình truyền hình dành cho NVNONN.
- Làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp và cho sinh viên nghành báo chí và những ai quan tâm đến loại hình báo chí truyền hình.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; vai trò, nhiệm vụ của Truyền hình Việt Nam trong công tác thông tin, tuyên truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về người Việt Nam ở nước ngoài.
1.1.1. Một số vấn đề về người Việt Nam ở nước ngoài.
1.1.1.1. Lịch sử hình thành cộng đồng NVNONN.
Quá trình hình thành cộng đồng NVNONN gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thật khó có thể khẳng định chính xác mốc thời gian và địa điểm những người Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài sinh sống. Nhưng, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, từ xa xưa đã có người Việt Nam ở nước ngoài. “ Một trong những cái mốc về thời điểm người Việt Nam có mặt ở nước ngoài thuộc loại xưa mà lịch sử ngày nay còn ghi rõ là vào đầu thế kỷ thứ XII, khi hoàng tử thứ hai con vua Lý Anh Tông là Lý Long Tường sang Cao Ly tị nạn” [14, tr 19].
Có thể tìm thấy những dấu tích về người Việt Nam ở nước ngoài những giai đoạn muộn hơn như ông Nguyễn An, một người Việt có tài đã được cất nhắc làm quan dưới triều Minh của Trung Hoa vì có công xây dựng mới thành Bắc Kinh. Thế kỷ XV đã có nhiều người Nhật đến Việt Nam buôn bán. Cũng chính người Nhật đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các hoạt động kinh tế ở phố Hiến và Faifo (Hội An) giai đoạn đầu thế kỷ XVII. Theo quy luật của quan hệ giao thương và di dân thì khi các thương nhân Nhật biết tìm đến Việt Nam làm ăn tấp nập như vậy, tất sẽ có những người Việt Nam biết đến Nhật sinh sống. Giai đoạn này chúa Nguyễn đã gả con gái mình là công chúa Ngọc Vạn cho một thương gia Nhật là Araki Sotaro vào năm 1619. Với tên Nhật là Anio, công chúa Ngọc Vạn đã trở thành người Việt Nam ở Nhật Bản từ thế kỷ thứ XVII.
Cùng với lịch sử truyền giáo của các nước phương Tây và việc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, thì địa bàn cư trú của NVNONN ngày càng được mở rộng. Thế kỷ thứ XVIII, một số tín đồ Thiên chúa giáo đã di cư từ Việt Nam sang Thái Lan. Giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX tới 1954, do chính sách tăng cường bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông dương và cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, đã có một số lượng lớn người Vịêt Nam di cư ra nước ngoài. Địa bàn cư trú của họ chủ yếu là các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan. Một số sang Pháp và hoặc các xứ thuộc địa của Pháp như Tahiti, Niu Di Lân…
Cũng ở cuối thế kỷ XIX đặc biệt là đầu thế kỷ XX, số người Việt Nam ra nước ngoài ngày càng tăng. Nhiều chí sĩ đã xuất dương ra nước ngoài hoạt động yêu nước, hưởng ứng phong trào Đông du (1904 -1908). Nhà yêu nước Phan Bội Châu cũng đã hoạt động tại Nhật Bản, Trung Hoa từ 1904 đến 1925. Tăng Bạt Hổ cũng đã có gần 20 năm hoạt động ở Nhật, Trung Quốc, Thái Lan và Nga. Rồi tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ như Nguyễn Thượng Hiền, Phạm Hồng Thái cũng đã hi sinh thân mình trên đất khách vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
ở các nước phương Tây, những năm đầu thế kỷ thứ XX cũng diễn ra nhiều hoạt động sôi nổi của những người Việt Nam yêu nước. Có một số nhân sĩ mà tên tuổi của họ đã trở thành niềm tự hào của NVNONN như Phan Chu Trinh (sống tại Pháp từ 1911 đến 1925); Phan Văn Trường ở Pháp từ đầu thế kỷ đến 1924; Nguyễn An Ninh ở Pháp từ 1917 đến 1925. Đặc biệt là nhà yêu nước Nguyễn Tất Thành. Năm 1911, từ một người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã bôn ba, sống và hoạt động cách mạng trên tất cả các châu lục và trở thành nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt nam với tên gọi Nguyễn ái Quốc và sau này là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Những năm tháng hoạt động ở nước ngoài và ngay cả khi đã trở thành vị Chủ Tịch nước, Bác Hồ luôn luôn chú trọng tới công tác vận động kiều bào hướng về cách mạng, hướng về Tổ quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1975 là giai đoạn nước ta bước vào cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Hoàn cảnh chiến tranh đã có tác động mạnh mẽ đến việc di cư của người Việt Nam ra nước ngoài. Động cơ, mục đích ra nước ngoài của người Việt giai đoạn này đa dạng hơn. Địa bàn người Việt đến định cư giai đoạn này đã mở rộng hơn. Ngoài các nước trong khu vực, người Việt đã đến các nước châu Âu, Mỹ, Canađa, ốtxtrâylia…
Đáng kể nhất là ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ đầu đất nước thống nhất, do sự kích động của các thế lực thù địch và sự bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ dẫn đến đời sống kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn. Giai đoạn này đã có hàng trăm nghìn người Việt Nam di tản ra nước ngoài. Chỉ tính từ sau năm 1975 đến đầu những năm 1980 đã có khoảng hơn 1 triệu người Việt Nam ra nước ngoài sinh sống, chủ yếu là sang Mỹ, Pháp, Canađa, và một số nước tư bản khác. Ngoài số người ra nước ngoài có nguyên nhân từ sự thất bại của đế quốc Mỹ và Ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam, còn phải kể đến số người di cư do các sự kiện xung đột quân sự ở biên giới phía Bắc, những biến động ở Campuchia và biên giới phía Tây Nam.
Cơ chế quan liêu, bao cấp trì trệ kéo dài đã dẫn tới việc nền kinh tế, xã hội nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, cho đến những năm đầu của thập niên 90 của thề kỷ XX, dòng người Việt Nam đi ra nước ngoài vẫn tiếp tục. Số người này vượt biên bằng đường thuỷ (thuyền nhân) đến Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Nhật Bản. Cho đến tháng 3 năm 1995 “ vấn đề thuyền nhân Việt Nam vẫn đang thuộc loại vấn đề nổi cộm trong việc điều chỉnh dân cư thế giới” [14, tr.26].
Thực hiện các chương trình nhân đạo, từ đầu năm 1980 đến nay, hàng trăm ngàn người Việt Nam đã xuất cảnh sang định cư ở nước ngoài theo các chương trình đoàn tụ gia đình (ODP), chương trình con lai Mỹ (AC) và chương trình cho số sĩ quan chế độ cũ đã cải tạo (HO)…
Từ đầu những năm 1980, theo hiệp định hợp tác lao động giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghiã (XHCN) Đông Âu, đã có hàng vạn công dân Việt Nam sang lao động, học tập, công tác. Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phần lớn số người này ở lại làm ăn sinh sống, kéo theo gia đình, đồng hương và những người lao động khác. Trong những năm gần đây, mỗi năm có thêm hàng ngàn công dân Việt Nam sang công tác, du lịch, tìm kiếm cơ hội làm ăn. Bởi vậy, hiện số người Việt Nam ở nước ngoài càng tăng ở khu vực này.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, việc đi lại giữa trong và ngoài nước của người Việt Nam với mục đích khác nhau như học tập, lao động, kinh doanh, du lịch, đoàn tụ gia đình, hôn nhân ngày càng thuận tiện hơn. Như vậy có nghĩa cả hiện tại và trong tương lai vẫn sẽ có thêm nhiều người Việt Nam ra sinh sống ở nước ngoài.
Theo thống kê sơ bộ, cộng đồng NVNONN “hiện có khoảng 2,7 triệu người ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ” [46, tr.15]. Gần một nửa số người Việt Nam ở nước ngoài hiện đang làm ăn sinh sống tại Mỹ; 98% tổng số NVNONN sống tại 21 nước có đông người Việt Nam (trên 10.000 người), tập trung tại 5 khu vực chính. Đó là: Bắc Mỹ; Tây-Bắc Âu; Nga và Đông Âu; Đông Dương- Đông Bắc á; châu úc. Hiện có khoảng từ 70% kiều bào đã có quốc tịch nước sở tại. Bên cạnh đó, thời gian qua hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia…
So với các cộng đồng thiểu số khác, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cộng đồng trẻ, năng động. Phần đông bà con hiện ngày càng ổn định cuộc sống và hoà nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau đến mối quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam. Điều đáng quý là dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, cộng đồng luôn duy trì mối quan hệ gần gũi với quê hương, mong muốn đất nước phát triển và hội nhập với quốc tế. Trừ có một bộ phận đồng bào chưa hiểu đúng về tình hình đất nước nên còn có thái độ tiêu cực hoặc dè dặt, thậm chí một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc.
Những số liệu trên đây cho chúng ta thấy tính chất đa dạng, phức tạp của quá trình hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn đã tạo ra cho những người Việt Nam đi ra nước ngoài có những động cơ, mục đích khác nhau. Qua tổng hợp, phân tích, chúng tôi thấy: trên cơ sở nguồn gốc phức tạp của các nhóm di cư đã hình thành nên cộng đồng NVNONNvới 2,7 triệu người sinh sống tại 90 quốc gia trên khắp các châu lục, tập trung tại 21 nước thuộc 5 khu vực chính là Bắc Mỹ, Tây- Bắc Âu; Nga và Đông Âu; Đông Dương - Đông Bắc á, Châu úc. Riêng ở Mỹ hiện có tới một nửa trong tổng số kiều bào ở nước ngoài. Chính sự phức tạp trong lịch sử hình thành đã làm nên tính đa dạng và những đặc thù của cộng đồng NVNONN.
1.1.1.2. Báo chí và nhu cầu thông tin về tình hình đất nước của cộng đồng.
- Tình hình báo chí ở nước ngoài và những tác động tới cộng đồng.
Như đã đề cập ở phần lịch sử hình thành, do nguồn gốc di cư phức tạp nên cộng đồng NVNONN có rất nhiều nét khác biệt về đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, sắc tộc, tôn giáo… Điều này được thể hiện rõ nét trong lĩnh vực báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Theo số liệu và đánh giá của các cơ quan chức năng thì tình hình báo chí của người Việt và báo chí nước ngoài tác động tới cộng đồng là hết sức lộn xộn, phức tạp. Trên thế giới hiện có tới trên 400 báo, tạp chí; 82 nhà xuất bản để; có tới 49 đài phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt hoặc chuyên mục bằng tiếng nước ngoài đề cập tới Việt Nam với mục đích xuyên tạc tình hình trong nước, làm xói mòn niềm tin cuả kiều bào với đất nước.Trong đó có một số đài tiêu biểu, có công suất lớn như VOA (Hoa Kỳ); RFI (Pháp); BBC (Anh); Manila (Philippin) RFA (Châu á tự do). Mới đây nhất, các thế lực thù địch đã đưa vào phát sóng 2 đài phát thanh mới là đài Nhà nước Đề Ga và đài Vàng Pao để tăng cường cho các hoạt động tuyên truyền chống phá ta.
Trong số 2,7 triệu người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, phần tử chống đối, đi ngược lại với lợi ích dân tộc chỉ là một bộ phận rất nhỏ. Đa phần là những kẻ trong chế độ cũ đã từng cầm súng chống lại nhân dân và ra đi sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ ngày 30/4/1975. Tuy đã nhiều năm sống lưu vong nhưng chúng vẫn luôn ôm lòng hận thù, mang mặc cảm của kẻ thất bại và tìm mọi cách chống phá Tổ quốc. Họ cấu kết với nhau, nhận sự tiếp tay của các thế lực phản động quốc tế và đặc biệt các lực lượng chống đối này “tuy ít, nhưng họ nắm giữ hầu hết các cơ quan ngôn luận và hệ thống truyền thông đại chúng của NVNONN, đặc biệt là tại Bắc Mỹ, Tây Âu, ốtxtrâylia” [14, tr.157]. Theo thống kê, ở ba nước này đã có tới 60% tổng số báo chí của những người Việt lưu vong chống đối. Riêng ở Mỹ đã có tới gần 150 loại báo, tạp chí. Tại Pháp và ở hơn mười nước thuộc Đông và Tây Âu, số lượng báo chí này chiếm 35% (Pháp có khoảng 35 loại, Đức hơn 30 và ở Canađa là 20 loại). Có thể nói, chính số người này đã và đang ra sức hoạt động chống phá Việt Nam một cách tuyệt vọng.
Qua khảo sát cho thấy, báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng của các lực lượng chống đối đã tập trung vào mục tiêu kích động, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, gây hoang mang, dao động đối với cộng đồng NVNONN.
Có thể kể tên một số ấn phẩm báo chí, phương tiện truyền thông của các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, tiêu biểu như tờ nguyệt san: Làng văn xuất bản ở Tôrôntô, Canađa với chuyên mục Chuyển lửa về quê hương. Nhóm Hợp lưu nằm trong tổ chức vận động dân chủ của Mỹ tác động tới Việt Nam có tạp chí Hợp lưu và Đối thoại với chủ trương phân hoá, chia rẽ khối đại đoàn kết trong nước và trước hết là giới trí thức, văn nghệ sĩ, người hoạt động tôn giáo. Tờ Tạp chí Việt Nam mới với lời khẳng định là tiếng nói đối lập với Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam, kêu gọi độc giả “hãy can đảm sử dụng quyền dân chủ, chống lại mọi sự trù dập, đàn áp để hỗ trợ cho sự đổi mới, làm cho Việt Nam giàu đẹp mười lần hơn”. Kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam “chấp nhận sự hiện diện của tiếng nói đối lập ngoài Đảng, để cùng nhau xây dựng một nhà nước Việt Nam thật sự mới mẻ, giàu mạnh”. Cùng mục tiêu chống cộng sản là các tờ nguyệt san Chứng nhân của Hội văn nghệ sĩ Việt Nam tự do và tờ Kháng chiến của Mặt trận Quốc gia Thống nhất giải phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh cầm đầu. Rồi các tờ: Quê mẹ do nhóm của Võ Văn Ái ở Pháp… Nhiều tổ chức phản động lưu vong ở các nước liên kết với nhau để hoạt động chống phá đất nước thông qua báo chí. Tiêu biểu phải kể đến nhóm chống đối đất nước ở Hoa Kỳ cùng một số người Việt Nam ở Nga lập nên cái gọi là đài: Tiếng nói tự do phát thanh từ Mạc Tư Khoa. Rồi các đài phát thanh tiếng Việt như Regiona của tổ chức Phục hưng Việt Nam; đài Diễn đàn dân chủ để tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam và thực tế đời sống của NVNONN.
Tuy nhiên, như đã đề cập, các phần tử chống đối chỉ là một nhóm nhỏ và càng điên cuồng chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân, chúng càng bị cô lập, tiếng nói của chúng ngày càng trở nên lạc lõng trong cộng đồng NVNONN.
Bên cạnh các tờ báo, chương trình phát thanh truyền hình của các lực lượng phản động có nội dung độc hại còn có những tiếng nói yêu nước, gắn bó với Tổ quốc. Nhiều tờ báo của các tổ chức xã hội, đoàn thể là diễn đàn, là nhịp cầu để NVNONN hướng về đất nước. Tiêu biểu là ở Mátxcơva, nơi tập trung số lượng người Việt đông đảo nhất so với các thành phố thuộc Liên xô và các nước Đông Âu cũ. Đại sứ quán Việt Nam đã tổ chức xuất bản tạp chí và tuần tin Đất nước. Ngoài việc thông tin tình hình phát triển kinh tế xã hội trong nước, tạp chí và tuần tin Đất nước đã giới thiệu nhiều về tình hình của cộng đồng, dành nhiều trang giới thiệu các sáng tác văn học nghệ thuật của các tác giả hiện đang sống và làm việc ở liên bang Nga. Ngoài ra còn có tạp chí Người bạn đường, Thông tin và Thời đại…
Ngay ở tại một số nước có những tổ chức, những phần tử chống phá Tổ quốc quyết liệt và dai dẳng nhất như ở Mỹ, Canađa và ốtxtrâylia vẫn có những tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình chuyển tải những nội dung trung thực về tình hình đất nước đến cộng đồng. ở Canađa, phong trào Việt kiều hướng về Tổ quốc với tờ báo Tiền phong sau được đổi tên là Thời sự tiền phong rồi Đất việt và Đất mới. ở Pháp có báo Đoàn kết của Hội người Việt Nam tại Pháp. ở ốtxtrâylia, cộng đồng người Việt yêu nước vẫn luôn hướng về Tổ quốc, họ đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ nhằm nuôi dưỡng bản sắc văn hóa Việt Nam cho bà con xa xứ. Tờ báo Đất nước người Việt như một tiếng nói tha thiết của cộng đồng hướng về cội nguồn.
Có thể khẳng định rằng, thời gian qua cộng đồng NVNONN đã phải chịu một áp lực thông tin không lành mạnh và thiếu khách quan trung thực của một bộ phận người Việt phản động, lưu vong cấu kết với các thế lực thù địch của nước ngoài. Điều đáng nói là thiểu số người này lại nắm giữ hầu hết các phương tiện thông tin báo chí của cộng đồng ở các nước sở tại. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các tờ báo tiến bộ hướng về Tổ quốc của người Việt, báo chí thuộc các cơ quan ngoại giao của ta vẫn chưa thật sự làm chủ và đáp ứng được nhu cầu về thông tin của cộng đồng NVNONN. Bởi vậy tăng cường thông tin “chính thống” về tình hình mọi mặt của đất nước đến cộng đồng NVNONN là một đòi hỏi cấp thiết được đặt ra.
- Báo chí trong nước với việc đáp ứng nhu cầu thông tin của cộng đồng NVNONN.
Với thực trạng báo chí tại chỗ phức tạp, lộn xộn và chịu sự chi phối của các tổ chức phản động lưu vong như đã trình bày ở trên, rõ ràng là 2,7 triệu NVNONN trên khắp các châu lục có nhu cầu được lắng nghe những thông tin “chính thống” về mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội từ trong nước. Trao đổi trực tiếp với nhiều tầng lớp kiều bào về thăm quê hương; qua những lá thư công chúng gửi về VTV4 và qua phiếu trưng cầu ý kiến khán giả mà chúng tôi thực hiện đã nói lên nguyện vọng thiết tha ấy của cộng đồng.
Do đặc điểm đồng bào di cư bao gồm đủ các thành phần, lứa tuổi, trình độ, nên vấn đề hoà nhập với cuộc sống ở đất nước sở tại là rất khó khăn. Ngôn ngữ là một rào cản lớn với một bộ phận NVNONN. Nhiều người đã định cư ở nước ngoài tới vài chục năm, nhưng khả năng ngôn ngữ vẫn rất hạn chế. “Đến thăm các gia đình người Việt ngụ cư ở Cahramatta, nhiều người thú nhận: họ xem chương trình tivi ốtxtrâylia chủ yếu xem hình ảnh” [14, tr.138]. Bởi vậy, nhu cầu tiếp nhận thông tin về thế giới, về Tổ quốc bằng tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn. Đặc biệt là những nguồn thông tin qua báo chí chính thức của nước nhà.
Trước nguyện vọng và đòi hỏi đáp ứng về thông tin của cộng đồng, thời gian qua, báo chí trong nước đã làm được những gì? Có thoả mãn được nhu cầu thông tin của cộng đồng người Việt Nam xa Tổ quốc hay không?
Từ nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới công tác về NVNONN, trong đó có hoạt động thông tin báo chí. Ngày càng có nhiều cơ quan báo chí tham gia vào công tác thông tin cho kiều bào. Đài Truyền hình Việt Nam có chương trình VTV4 dành riêng cho cộng đồng NVNONN phủ sóng đến các khu vực châu Á, châu Âu, Bắc và Trung Phi, Bắc Mỹ và Tây Bắc ốtxtrâylia. THVN đã hợp tác với Jump TV Canađa đưa VTV4 lên mạng Internet và đang nghiên cứu khả năng đưa truyền hình qua Internet hoặc hệ thống truyền h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- muc luc.doc