Nước Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em. Trong số hơn 86 triệu dân số thì đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi chiếm tới 14, 2 triệu người. Vùng có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi sinh sống là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và miền Trung. Đây cũng là vùng có nhiều khó khăn về địa hình, về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và vùng bị tranh chấp thông tin.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn khẳng định tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và miền núi trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước. Sự quan tâm đó được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong nước và quốc tế luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn, hạn chế của đồng bào và những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành về công tác dân tộc và miền núi để tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, gây mất ổn định an ninh chính trị. Nhiều đài phát thanh nước ngoài phát chương trình tiếng Việt như: Đài Châu Á Tự do (RFA), Đài VOA, BBC v.v. Đặc biệt Đài Manila (Philippin) phát chương trình tiếng H’Mông nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc của Đảng ta.
Trong tình hình bùng nổ thông tin hiện nay, nhiều sản sản phẩm văn hoá không lành mạnh, với nhiều hình thức khác nhau đã đưa vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên mạng internet, nhiều trang web phản động của các thế lực thù địch lập ra nhằm bôi xấu chế độ, hạ bệ lãnh tụ, kích động quần chúng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù chúng ta đã ngăn chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần suất ngày càng dày gây tâm lý hoang mang, không tin tưởng vào chế độ khiến không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan. Đặc biệt do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch xúi giục, kích động. Trước tình hình phức tạp như vậy, với tư cách là một cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào hiểu, không tin theo kẻ xấu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam (THVN) nói chung, Ban truyền hình tiếng dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới thông tin là yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài THVN.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số sẽ được bảo tồn và phát triển.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số [6].
Đổi mới thông tin nói chung, trong đó tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Đài THVN. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm, nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
102 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chương trình dân tộc và miền núi trên sóng Đài truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Nước Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em. Trong số hơn 86 triệu dân số thì đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi chiếm tới 14, 2 triệu người. Vùng có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi sinh sống là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và miền Trung. Đây cũng là vùng có nhiều khó khăn về địa hình, về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và vùng bị tranh chấp thông tin.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn khẳng định tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và miền núi trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước. Sự quan tâm đó được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong nước và quốc tế luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn, hạn chế của đồng bào và những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành về công tác dân tộc và miền núi để tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, gây mất ổn định an ninh chính trị. Nhiều đài phát thanh nước ngoài phát chương trình tiếng Việt như: Đài Châu Á Tự do (RFA), Đài VOA, BBC v.v... Đặc biệt Đài Manila (Philippin) phát chương trình tiếng H’Mông nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc của Đảng ta.
Trong tình hình bùng nổ thông tin hiện nay, nhiều sản sản phẩm văn hoá không lành mạnh, với nhiều hình thức khác nhau đã đưa vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên mạng internet, nhiều trang web phản động của các thế lực thù địch lập ra nhằm bôi xấu chế độ, hạ bệ lãnh tụ, kích động quần chúng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù chúng ta đã ngăn chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần suất ngày càng dày gây tâm lý hoang mang, không tin tưởng vào chế độ khiến không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan. Đặc biệt do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch xúi giục, kích động. Trước tình hình phức tạp như vậy, với tư cách là một cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào hiểu, không tin theo kẻ xấu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam (THVN) nói chung, Ban truyền hình tiếng dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới thông tin là yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài THVN.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số sẽ được bảo tồn và phát triển.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số [6].
Đổi mới thông tin nói chung, trong đó tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Đài THVN. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm, nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam" cho luận văn Thạc sỹ Truyền thông đại chúng của mình.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Những năm qua, vấn đề dân tộc và miền núi đã được nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu đề cập với nhiều góc độ khác nhau.
Trên lĩnh vực báo chí truyền thông, đáng chú ý có các công trình sau:
- Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Xuân An Việt về "Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam" năm 2001, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã khảo sát chương trình về đề tài dân tộc miền núi của Đài THVN trong 3 năm 1999 - 2001. Qua khảo sát, tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình, nhằm tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài THVN.
- Năm 2005, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Phạm Ngọc Bách đã bảo vệ luận văn thạc sỹ với tiêu đề "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Trong luận văn này, tác giả đã khảo sát các chương trình dân tộc và miền núi từ tháng 01-2004 đến tháng 06-2005 đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình.
Trong cuốn “Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2001, gồm nhiều bài viết của một số tác giả về sự phát triển các dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; xây dựng phát triển kinh tế, đời sống văn hoá - xã hội, bảo vệ tổ quốc... của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó có bài "Sự nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số" của ông Hồ Anh Dũng, Nguyên Tổng Giám đốc Đài THVN. Bài viết cho thấy sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài THVN đối với vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới.
Năm 2001, Hội thảo tổng kết "Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi" do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức, đề cập nhiều về yêu cầu đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, các tham luận còn nặng về việc trình bày các báo cáo, tổng kết của đại diện các cơ quan báo chí, chưa đi sâu kiếm tìm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng của từng ngành, từng đơn vị mình.
Năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện Quyết định 975/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số báo, tạp chí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Hội nghị mới dừng lại đánh giá mặt tốt, chưa cụ thể từng nội dung và hình thức tuyên truyền, công tác phát hành đến đồng bào các dân tộc thiểu số.
Từ năm 2006, khi “Chương trình Dân tộc và Miền núi” từ Ban chuyên đề Đài THVN được chuyển về Ban truyền hình tiếng dân tộc, thì tên gọi, nội dung và kết cấu của chương trình này đã có sự thay đổi.
Trong xu thế phát triển của đất nước, để đáp ứng nhu cầu bạn xem truyền hình, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chúng tôi nhận thấy cần tiếp tục nghiên cứu sâu, từ đó có các giải pháp điều chỉnh chương trình để đạt hiệu quả hơn trong thời đại bùng nổ và cạnh tranh thông tin.
Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, đề tài nghiên cứu “Chương trình Dân tộc và miền núi trên sóng Đài truyền hình Việt Nam” của chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong năm vừa qua. Trên cơ sở đó, có cái nhìn tổng quát về Chương trình Dân tộc và Miền núi của Đài THVN, làm rõ những ưu điểm và nhược điểm, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác thông tin về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận báo chí và thực tiễn sản xuất, phát sóng các sản phẩm của chương trình Dân tộc và Miền núi, luận văn để xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên sóng Đài THVN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề Dân tộc và Miền núi
- Khảo sát Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 và thực tế hoạt động sản xuất chương trình Dân tộc và Miền núi nói chung trên sóng Đài THVN.
- Phân tích kinh nghiệm, phát hiện vấn đề và những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chương trình, đề xuất các giải pháp, nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng Đài THVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài truyền hình Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát các chương trình được phát sóng trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên của Đài THVN do Ban truyền hình tiếng dân tộc đảm nhiệm.
Thời gian khảo sát từ tháng 05-2008 đến tháng 05-2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Phương pháp luận của luận văn dựa trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin, mà nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phân tích đánh giá trong đề tài dựa trên quan điểm báo chí vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối dân tộc; dựa vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và miền núi; cũng như quan điểm của Đảng về vai trò của báo chí trong đời sống văn hóa xã hội để làm căn cứ trong quá trình nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở của lý luận báo chí truyền thông và lý luận của báo chí truyền hình để phân tích, đánh giá từng khía cạnh cụ thể của thông tin về vấn đề dân tộc thiểu số và miền núi trên sóng truyền hình Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp khảo sát thực tế, khảo sát Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam.
Phương pháp điều tra xã hội học: phương pháp này chọn đối tượng khảo sát là đồng bào dân tộc thiểu số ở 4 tỉnh là: Hà Giang, Điện Biên, Cần Thơ và Gia Lai.
Phương pháp thống kê, phân loại nhằm tổng hợp, phân tích vấn đề một cách cụ thể, khách quan. Qua đó, tìm ra những điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của chương trình phát trên sóng Đài THVN phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phương pháp phỏng vấn sâu những người am hiểu, quan tâm đến chương trình, cùng ý kiến của các đồng nghiệp, của nội bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên Ban truyền hình tiếng dân tộc cũng như lãnh đạo Đài THVN.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu nhược điểm của chương trình so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của thông tin phục vụ đồng bào trong hệ thống báo chí.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần tổng kết thực tiễn và lý luận về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ, phóng viên trực tiếp làm công tác thông tin về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn cũng có thể là tài liệu cho các cơ quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo và những ai quan tâm tham khảo đến vấn đề dân tộc và miền núi nói chung, vấn đề tuyên truyền đề tài này trên sóng truyền hình Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 83 trang.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Ở NƯỚC TA
1.1. DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤTNƯỚC
1.1.1. Khái niệm về Dân tộc và Miền núi
Hiện nay, khái niệm “dân tộc” còn có nhiều ý kiến khác nhau. Điều đó một phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và giác độ khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất hiện trên thế giới. Tìm kiếm một định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang là đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau:
1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau…
2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người… Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [35, tr. 655].
Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính cách…
2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc…
3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [50, tr. 255].
Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: "Dân tộc chiếm số ít so với dân tộc chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc".
Giáo trình triết học Mác - Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, nói về khái niệm dân tộc như sau:
Khái niệm dân tộc thông thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt "dân tộc" theo nghĩa rộng trên đây với "dân tộc" theo nghĩa khoa học: đó là hình thức cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ tộc phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển lên dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn [34, tr. 475-476].
Từ những nội dung trên có thể khái quát rằng: dân tộc là một khái niệm đa nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân tộc được tạo nên từ yếu tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện thành ý thức tự giác tộc người. Xét cho cùng, nền tảng của sự liên kết mà các yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh tế. Bởi vì, tính chất của dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất.
Ngoài ra nhiều ý kiến còn nhấn mạnh, dù hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc cũng vừa là một cộng đồng người, vừa là một cộng đồng chính trị- xã hội-tộc người. Có thể định nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị-xã hội- tộc người. Quan niệm này tạo nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm dân tộc với sắc tộc, bởi vì khái niệm sắc tộc thường dùng để chỉ các tộc người da màu [53, tr. 199]. Quan niệm này cũng cho phép phân biệt khái niệm dân tộc với khái niệm chủng tộc, vì khái niệm chủng tộc thường dùng để chỉ sự khác nhau về cấu tạo tự nhiên của con người [35, tr. 529].
Dân tộc và Miền núi - đây là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để chỉ toàn bộ các dân tộc thiểu số và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng cao. Gọi như thế này để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội dung khác. Hiện nay, cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
1.1.2. Đặc điểm về dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam
1.1.2.1. Những đặc điểm chung
Cộng đồng văn hóa Việt Nam rất đa dạng, bao gồm 54 dân tộc và bảy hệ ngôn ngữ chính tìm thấy từ Tây Á tới khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nhóm dân tộc đã tồn tại rất lâu đời và thậm chí trước cả khi người Việt tới định cư; một số khác thì mới nhập cư gần đây. Dân tộc thiểu số và miền núi đông nhất là người Tày, với gần 1,5 triệu người. Trong khi dân tộc thiểu số nhỏ nhất là người Ơ Đu với con số vừa vặn 300 người.
Các dân tộc thiểu số và miền núi có một vài đặc điểm chung: 75% người dân tộc thiểu số ở Việt Nam sống ở hai vùng: miền núi phía Bắc giáp với Trung Quốc và vùng Tây Nguyên giáp Lào và Cam-pu-chia. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều sống ở vùng nông thôn. Các vùng khác cũng có người dân tộc thiểu số sinh sống, ví dụ như: người Khơ - me, người Hoa và người Chăm thấy ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên nhìn chung là những tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, xã hội còn nhiều khó khăn. Các tỉnh này cũng là nơi tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Theo thống kê, số hộ nghèo ở vùng núi và trung du phía Bắc là 48,5% và ở Tây Nguyên hơn 48,4%.
Mặt khác, sự đa dạng cũng tồn tại nhiều trong nội bộ các cộng đồng dân tộc thiểu số: họ rất khác nhau về sự đồng hóa, khác cả cấp độ thành công về kinh tế. Một số dân tộc như: Tày và Mường, có mức thu nhập hộ gia đình và sự giáo dục tương đương với người Kinh, trong khi ở một nhóm dân tộc khác thì thậm chí lại không có thành viên nào theo học được tới bậc trung học phổ thông. Tính đa dạng về văn hóa và địa lý này khiến cho việc xây dựng chương trình của Chính phủ và các chương trình khác đáp ứng được nhu cầu về ngôn ngữ và văn hóa của từng cá thể trở nên vô cùng khó khăn. Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những nghiên cứu nhân học đầy đủ trong tương lai về mối tương đồng và khác biệt dân tộc.
Mặc dù được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước, song đến nay vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển về mọi mặt. Khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển giữa các vùng miền chưa được bảo đảm bởi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang phải đối mặt với nhiều cam go, thách thức, trước hết là đói nghèo. Ba vùng nghèo nhất là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía Bắc.
1.1.2.2. Những khác biệt
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở hầu hết các vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta là: sự khác biệt về năng lực, và sự khác biệt về ngôn ngữ.
Sự khác biệt về năng lực
- Rào cản lớn nhất để đạt tới sự thành công chính là giáo dục. Các dân tộc thiểu số và miền núi được tiếp cận ít hơn nền giáo dục có chất lượng. Do vậy, kết quả học tập của họ cũng thấp hơn. Tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và miền núi. Họ có xu hướng đi học muộn hơn ở bậc tiểu học và còn thiếu tiếp cận giáo dục bậc mầm non. Kết quả là tỷ lệ mù chữ và không thông thạo tiếng Việt ở người dân tộc thiểu số cao, từ đó cản trở khả năng tương tác của họ.
Nhiều người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người già và phụ nữ, không biết đọc biết viết, thậm chí không biết nói tiếng Việt. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận và chia sẻ thông tin; đồng thời là trở lớn trọng tới năng lực của họ trong suốt cả cuộc đời.
- Rào cản khác ngăn cản khả năng mở rộng năng lực là việc thiếu tính di chuyển và ít kinh nghiệm hòa nhập về một thế giới rộng lớn. Các dân tộc thiểu số và miền núi ít di chuyển hơn so với người Kinh. Điều đó hạn chế tới khả năng quan sát, học hỏi các ý tưởng và công nghệ mới của họ.
- Khả năng hành động cũng bị hạn chế bởi yếu tố văn hóa. Nhiều người dân tộc thiểu số tự nhận ra những khác biệt về văn hóa giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số trong các hoạt động giao dịch mua bán ở chợ, ở trường học hay ở các hoạt động xã hội khác.
Sự khác biệt về ngôn ngữ
Trong "các cuộc thảo luận nhóm tập trung trên khắp cả nước, các nhóm dân tộc thiểu số thường bày tỏ rằng họ "không tự tin" và "e ngại" khi lui tới các khu chợ, đòi giá cao hơn cho hàng hóa của mình, đòi hỏi các dịch vụ của Chính phủ mà họ được quyền hưởng lợi" [33, tr.13].
Sự e ngại này cùng với những hạn chế về tiếp cận giáo dục đã khiến người dân tộc thiểu số cảm thấy bị hạn chế về khả năng ngôn ngữ. Cùng với đó, việc thiếu tính di chuyển cũng khiến cho họ ít kinh nghiệm và ít sẵn sàng tiếp cận với thế giới xung quanh.
Một trở ngại nữa hạn chế việc tăng tiếng nói và quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số là lối suy nghĩ rập khuôn phổ biến hiển thị về sự kém cỏi của người dân tộc thiểu số trong con mắt của những người khác. Lối suy nghĩ rập khuôn này có thể dẫn tới những hậu quả xấu, đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tự trọng và sự tự tin của người dân tộc thiểu số trong việc sử dụng tiếng nói và quyền lực riêng của họ.
Thay đổi nhận thức của số đông về người dân tộc thiểu số đòi hỏi phải chú ý đến sự đại diện của các dân tộc thiểu số trong những công trình nhân học, đặc biệt trong các phương tiện truyền thông đại chúng.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI
1.2.1. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác dân tộc và miền núi
1.2.1.1. Vị trí
Ngay từ khi mới ra đời, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc được nhà nước ta đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra chính sách dân tộc và công tác dân tộc phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Cùng với sự phát triển của cách mạng, báo chí nước ta ngày càng khẳng định được vai trò là cầu nối tin cậy giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Nước ta có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số sống trải đều từ Bắc vào Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi miền núi dân tộc thiểu số có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong mọi thời điểm phát triển, Đảng và Nhà nước vẫn tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
Cách mạng xã hội, đó là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, về cơ bản mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đến với các vùng và đồng bào các dân tộc là nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy được nội lực, phấn đấu vượt qua đói nghèo, vươn lên từng bước hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989 "Về chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và miền núi, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có quyết định số 72/QĐ-HĐBT, ngày 13-3-1990 "Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển KT-XH miền núi" quy định rõ những nội dung đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất ở miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng tiểu vùng, từng dân tộc, gắn phát triển kinh tế với vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc phòng.
Ngày 31 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 1637/QĐ-TTg về việc cấp một số loại báo, tạp chí của 17 tòa soạn báo được Chính phủ cấp kinh phí xuất bản để phát hành không thu tiền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngày 20 tháng 7 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg thay thế Quyết định 1637 nhưng nội dung không thay đổi. Đến nay, các báo, tạp chí phục vụ riêng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc diện thụ hưởng của Quyết định 975 đang phát huy hiệu quả tuyên truyền, được đồng bào ghi nhận.
Có thể nói, thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân.
Cả trong thời kỳ chiến tranh và trong thời kỳ đổi mới hiện nay, thông tin về lĩnh vực này luôn được coi trọng góp phần rút ngắn khoảng cách giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu,…
1.2.1.2. Vai trò
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã coi trọng vấn đề dân tộc, coi đây là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi công tác dân tộc thiểu số là một phần hữu cơ, có vai trò quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn về đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc miền núi. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia moi.doc