Luận văn Chế độ tổng thống Mỹ

1.1. Nước Mỹ đã và đang là cường quốc hàng đầu thế giới với sức ảnh hưởng mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự lan toả tới nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên khắp các châu lục. Nhìn nhận vai trò và vị thế đặc biệt đó, cả giới nghiên cứu lẫn phương tiện thông tin và dư luận công chúng đều rất quan tâm đến chế độ tổng thống Mỹ - một lĩnh vực quan trọng bậc nhất của hệ thống chính trị Hoa Kỳ.

1.2. Chế độ tổng thống Mỹ là mô hình nguyên thủ quốc gia cộng hoà mang bản chất tiên phong, tiêu biểu và có tác động rộng rãi. Tiên phong vì đây là một trong ít hình thức nguyên thủ quốc gia cộng hoà đầu tiên, tự thân hình thành, khẳng định và phát triển. Tiêu biểu vì nó thể hiện rõ ràng, đầy đủ nhất các đặc tính của một mô hình nguyên thủ quốc gia cộng hoà hiện đại: tính quyền lực tối cao, tính dân chủ, tính xã hội, tính liên tục và ổn định. Có tác động rộng rãi vì nó tồn tại, phát triển suốt hơn hai thế kỷ qua, là trung tâm và chi phối toàn bộ nền chính trị Mỹ, đồng thời ngày càng trở thành mô hình nguyên thủ quốc gia mẫu của nhiều nước (khoảng gần 1/3 số quốc gia trên thế giới hiện nay theo kiểu chế độ tổng thống này).

1.3. Dù ban đầu đã đạt được ít nhiều thành công, nhưng ngành luật hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, đầy tính sơ lược và khái quát. Trong điều kiện đó, chế định nguyên thủ quốc gia cũng chỉ được đề cập chung chung, sơ sài và chế độ tổng thống Mỹ chỉ được coi bình thường như hàng chục mô hình nguyên thủ quốc gia khác. Thực trạng này đã không đánh giá đúng được những đặc tính, giá trị khác biệt và ưu thế của chế độ tổng thống Mỹ. Như vậy, nghiên cứu kỹ càng và toàn diện chế độ tổng thống Mỹ sẽ là một nhu cầu cần thiết nhằm bổ sung, hoàn thiện chế định nguyên thủ quốc gia, góp phần làm phong phú, cụ thể hoá và phát triển ngành luật hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam nói chung.

1.4. Quan hệ Việt - Mỹ từng trải qua nhiều thăng trầm, song đã được bình thường hoá từ năm 1995 và có những bước tiến tích cực. Nghiên cứu, tìm hiểu về chế độ tổng thống Mỹ là việc rất cần thiết để góp phần hiểu rõ cơ cấu, hoạt động và cốt lõi của hệ thống chính trị Mỹ, giúp xây dựng, phát triển quan hệ phù hợp giữa hai nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tổng thống Mỹ chắc cũng sẽ gợi mở việc chia sẻ, chọn lọc, tiếp thu một số điểm tích cực, tương đồng đối với quá trình đổi mới, phát triển và hoàn thiện định chế chủ tịch nước Việt Nam.

 

doc125 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chế độ tổng thống Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Nước Mỹ đã và đang là cường quốc hàng đầu thế giới với sức ảnh hưởng mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự lan toả tới nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên khắp các châu lục. Nhìn nhận vai trò và vị thế đặc biệt đó, cả giới nghiên cứu lẫn phương tiện thông tin và dư luận công chúng đều rất quan tâm đến chế độ tổng thống Mỹ - một lĩnh vực quan trọng bậc nhất của hệ thống chính trị Hoa Kỳ. 1.2. Chế độ tổng thống Mỹ là mô hình nguyên thủ quốc gia cộng hoà mang bản chất tiên phong, tiêu biểu và có tác động rộng rãi. Tiên phong vì đây là một trong ít hình thức nguyên thủ quốc gia cộng hoà đầu tiên, tự thân hình thành, khẳng định và phát triển. Tiêu biểu vì nó thể hiện rõ ràng, đầy đủ nhất các đặc tính của một mô hình nguyên thủ quốc gia cộng hoà hiện đại: tính quyền lực tối cao, tính dân chủ, tính xã hội, tính liên tục và ổn định. Có tác động rộng rãi vì nó tồn tại, phát triển suốt hơn hai thế kỷ qua, là trung tâm và chi phối toàn bộ nền chính trị Mỹ, đồng thời ngày càng trở thành mô hình nguyên thủ quốc gia mẫu của nhiều nước (khoảng gần 1/3 số quốc gia trên thế giới hiện nay theo kiểu chế độ tổng thống này). 1.3. Dù ban đầu đã đạt được ít nhiều thành công, nhưng ngành luật hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, đầy tính sơ lược và khái quát. Trong điều kiện đó, chế định nguyên thủ quốc gia cũng chỉ được đề cập chung chung, sơ sài và chế độ tổng thống Mỹ chỉ được coi bình thường như hàng chục mô hình nguyên thủ quốc gia khác. Thực trạng này đã không đánh giá đúng được những đặc tính, giá trị khác biệt và ưu thế của chế độ tổng thống Mỹ. Như vậy, nghiên cứu kỹ càng và toàn diện chế độ tổng thống Mỹ sẽ là một nhu cầu cần thiết nhằm bổ sung, hoàn thiện chế định nguyên thủ quốc gia, góp phần làm phong phú, cụ thể hoá và phát triển ngành luật hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam nói chung. 1.4. Quan hệ Việt - Mỹ từng trải qua nhiều thăng trầm, song đã được bình thường hoá từ năm 1995 và có những bước tiến tích cực. Nghiên cứu, tìm hiểu về chế độ tổng thống Mỹ là việc rất cần thiết để góp phần hiểu rõ cơ cấu, hoạt động và cốt lõi của hệ thống chính trị Mỹ, giúp xây dựng, phát triển quan hệ phù hợp giữa hai nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tổng thống Mỹ chắc cũng sẽ gợi mở việc chia sẻ, chọn lọc, tiếp thu một số điểm tích cực, tương đồng đối với quá trình đổi mới, phát triển và hoàn thiện định chế chủ tịch nước Việt Nam. 2. tình hình nghiên cứu đề tài Như vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu chế độ tổng thống Mỹ là rất cần thiết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp và do một số nguyên nhân chủ quan, khách quan khác, nên cho đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể hoặc chi tiết về chế độ tổng thống Mỹ. Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam, dưới chính quyền Sài Gòn, đã xuất hiện các ấn phẩm pháp lý - chính trị nghiên cứu về Hoa Kỳ, trong đó có đề cập đến chế độ Tổng thống Mỹ. Song sự đề cập đó chỉ chút ít, giữ vai trò tham khảo, hỗ trợ cho nội dung chính của tác phẩm. Chẳng hạn, cuốn sách Cuộc chuẩn bị vĩ đại của C. V. Doren (Cam Ninh dịch, Việt Nam Khảo dịch xã, 1966) viết về tiến trình soạn thảo và thông qua Hiến pháp Mỹ nguyên thuỷ 1787, trong đó có trình bày chế định tổng thống trong Hiến pháp được xây dựng như thế nào. Cuốn Những chế độ chính trị hiện nay của M. Duverger (Nhà xuất bản Khai trí, 1967) giới thiệu và phân tích các mô hình thể chế chính trị phổ biến trên thế giới đương thời, trong đó có hình thức cộng hoà tổng thống Mỹ ( trong chương nhan đề “Những chế độ theo tiêu thức Mỹ”). Giáo trình Luật Hiến pháp và Chính trị học của Nguyễn Văn Bông (Nxb Sài Gòn, 1967) lại đề cập đôi nét về chế độ tổng thống Mỹ ở phần viết về chế định nguyên thủ quốc gia. Còn tác phẩm Lực lượng chính trị của Trần Thị Hoài Trân (Nxb Sài Gòn, 1972) thì viết chủ yếu về cơ cấu tổ chức, hoạt động, quan hệ của các đảng phái và tổ chức chính trị, trong đó có điểm qua vai trò của chế độ tổng thống trong nền chính trị Hoa Kỳ... Sau năm 1975, khoa học pháp lý - chính trị Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, nhưng vấn đề nghiên cứu về chế độ tổng thống Mỹ vẫn chưa tạo được bước tiến nào. Tính đến nay, vẫn chưa có sách viết riêng về chế độ tổng thống Mỹ. Một số bài đăng trong các tạp chí Nhà Nước & Pháp Luật, Khoa Học Chính Trị, Châu Mỹ Ngày Nay, Nghiên Cứu Lập Pháp, Dân Chủ & Pháp Luật, Sinh Hoạt Lý Luận... thường chỉ hoặc đề cập chế độ tổng thống như một bộ phận bình thường trong nền chính trị, hoặc tìm hiểu về một lĩnh vực liên quan đến Tổng thống Mỹ. Chẳng hạn, bài Chính thể cộng hoà tổng thống của Mỹ (PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung - Tạp chí Châu Mỹ Ngày Nay, số 1/1995) viết khái quát về hình thức chính thể và cơ cấu tổ chức, hoạt động của Nhà nước Hoa Kỳ, chứ không viết riêng về chế độ tổng thống Mỹ. Bài Quyền phủ quyết của Tổng thống Hoa Kỳ (Trương Xuân Danh - Tạp chí Châu Mỹ Ngày Nay, số 2/1999) viết về các loại quyền phủ quyết, khả năng, mục đích, ý nghĩa phủ quyết dự luật của Tổng thống Mỹ. Bài Chức năng, thẩm quyền và hoạt động giám sát hành pháp của Quốc hội Mỹ (Nguyễn Anh Hùng - Tạp chí Châu Mỹ Ngày Nay, số 11/2002) viết về việc Tổng thống và ngành hành pháp bị Quốc hội Mỹ giám sát như thế nào... Các sách báo phổ thông (không thuộc lĩnh vực pháp lý - chính trị) và phương tiện thông tin đại chúng thì thường chỉ cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động, quan hệ của Tổng thống, kèm theo một số lời bình luận, chứ không mang tính nghiên cứu khoa học, tổng quát hoặc chuyên sâu. Khác hẳn ở Việt Nam, tại nhiều nước trên thế giới - nhất là ở các quốc gia Bắc Mỹ và Tây âu - việc tìm hiểu, nghiên cứu về chế độ tổng thống Mỹ phát triển rất mạnh. Nhiều hội nhóm, câu lạc bộ... nghiên cứu về chế độ tổng thống Mỹ được thành lập, quy tụ các chính trị gia, nhà nghiên cứu và những người quan tâm tìm hiểu chế độ tổng thống Mỹ. Một số trường phái, trào lưu nghiên cứu chế độ tổng thống Mỹ cũng xuất hiện và đã có những học giả dành cả cuộc đời mình cho vấn đề hấp dẫn này (như Th. E. Cronin, M. A. Genovese, Th. E. Patterson, R. J. Spitzer...). Có người đã xây dựng cả luận thuyết về chế độ tổng thống Mỹ, như A. Schlesinger với "chế độ tổng thống vương quyền" (The Imperial Presidency - Houghton Mifflin, Boston, 1973) hay S.A. Shull với "chế độ tổng thống hai chức vị" (The Two Presidencies - Nelson-Hall, Chicago, 1991). Cũng có người dày công nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của tất cả các Tổng thống Mỹ, cho ra đời những bách khoa toàn thư giá trị, tiêu biểu là M. Nelson với cuốn "The Presidency A to Z: A Ready Reference Encyclopedia" (Congressional Quarterly, Washington DC, 1992) và W. A. Degregorio với cuốn "The Complete Book of U.S. President" (Gramercy Book, New York, 2002) - sách này từng được dịch ra tiếng Việt, được ấn hành 2 lần ở Việt Nam bởi Nxb Chính trị quốc gia và Nxb Văn hóa Thông tin. Ngoài những công trình nghiên cứu tổng quát và tổng thể, còn có nhiều công trình nghiên cứu chi tiết, chuyên sâu về một vấn đề nào đó của chế độ tổng thống Mỹ, chẳng hạn cuốn "The Presidential Veto" của R. J. Spitzer (SUNY Press, Albany, 1988) viết riêng về sự phủ quyết của Tổng thống, cuốn "Presidential War Power" của L. Fisher (University Press of Kansas, Lawrence, 1995) lại chỉ viết về thẩm quyền chiến tranh của Tổng thống... 3. đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tổng thể và chi tiết về chế độ tổng thống Mỹ, gồm các đối tượng: - Sự hình thành, tồn tại, phát triển; các đặc tính, giá trị, ý nghĩa và ảnh hưởng của chế độ tổng thống Mỹ. - Những yếu tố cơ bản của chế độ tổng thống Mỹ: địa vị, quyền hạn và phương thức thiết lập. - Một số vấn đề liên quan trực tiếp, mật thiết tới chế độ tổng thống Mỹ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu tổng quát về chế độ tổng thống Mỹ trên nền tảng pháp lý - chính trị. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu sâu về 3 yếu tố cơ bản cấu thành nên chế độ Tổng thống Mỹ: địa vị, quyền hạn và phương thức thiết lập. 4. nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ: - Nghiên cứu sự hình thành chế độ tổng thống Mỹ. - Trình bày và đánh giá những giai đoạn phát triển của chế độ tổng thống Mỹ. - Đúc kết và nêu bật những đặc tính của chế độ tổng thống Mỹ. - Trình bày, nhận xét về những quan niệm ở Hoa Kỳ và trên thế giới về chế độ tổng thống Mỹ. - Phân tích, chứng minh để làm rõ những ý nghĩa tích cực, hạn chế của chế độ tổng thống Mỹ. - Trình bày, nhận xét về phương thức tổ chức, sự phân bố quyền lực chính trị trong Nhà nước Mỹ và vị thế, vai trò của Tổng thống. - Phân tích, so sánh, chứng minh, đánh giá địa vị pháp lý và địa vị thực tế của Tổng thống Mỹ. - Trình bày, phân tích, so sánh và nêu ý nghĩa các quyền hạn của Tổng thống Mỹ. - Nêu, phân tích, chứng minh, nhận xét về tiêu chuẩn ứng viên tổng thống Mỹ và từng giai đoạn trong tiến trình thiết lập tổng thống Mỹ (ứng cử, đề cử, tranh cử, bầu chọn, nhậm chức, giữ chức, thôi chức). 4.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nhằm làm sáng tỏ hình thức, bản chất, nội dung, vị thế, vai trò, ảnh hưởng của chế độ tổng thống Mỹ và những yếu tố cấu thành nên nó. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có tham khảo, áp dụng thêm một số cơ sở lý luận hiện đại, tiến bộ khác. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: biện chứng - lịch sử, phân tích - tổng hợp - hệ thống hoá, thống kê - chứng minh, so sánh - đối chiếu, địa chính trị - xã hội học... Luận văn cũng kết hợp lý thuyết pháp lý với thực tiễn chính trị, đồng thời tìm hiểu, nhìn nhận đánh giá chế độ tổng thống Mỹ từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau, với tôn chỉ tạo sự khách quan và dễ chấp thuận. Luận văn đưa ra một số khẳng định và quan điểm của tác giả, nhưng không đề cao, tuyệt đối hoá các quan điểm đó. Ngôn ngữ luận văn tuân thủ tính khoa học, chính xác nhưng đồng thời thể hiện mềm dẻo, hùng biện, tránh hiện tượng quá khô khan, trùng lặp, luẩn quẩn như từng thấy trong một số luận văn luật học. 6. đóng góp mới và giá trị của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chế độ tổng thống Mỹ, luận văn này có những đóng góp mới và giá trị nổi bật sau: - Là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tổng thể và chi tiết về chế độ tổng thống Mỹ. - Là công trình nghiên cứu quy mô về một loại hình chế độ chính trị quan trọng nhất của cường quốc hàng đầu thế giới. - Làm rõ tiến trình hình thành, tồn tại, phát triển và những giá trị, ý nghĩa, vai trò của chế độ tổng thống Mỹ. - Nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc về phương thức thiết lập, địa vị và quyền hạn của Tổng thống Mỹ. - Là công trình kết hợp được nhuần nhuyễn lý thuyết pháp lý và thực tiễn chính trị. - Thể hiện đúng đắn, sống động vị thế, ảnh hưởng của Tổng thống và chế độ tổng thống Mỹ cả ở trong nước Mỹ lẫn trên thế giới. - Góp phần bổ sung, phát triển ngành luật hiến pháp nước ngoài ở Việt Nam; xây dựng quan hệ tích cực Việt - Mỹ; và là nguồn tài liệu tham khảo cho quá trình đổi mới, hoàn thiện định chế chủ tịch nước Việt Nam. - Giúp mở rộng, nâng cao tri thức, hiểu biết về Nhà nước và nền chính trị Mỹ. - Có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, học viên ngành pháp lý - chính trị cũng như những ai quan tâm đến Tổng thống và nước Mỹ. 7. kết cấu của luận văn Luận văn được cấu trúc bao gồm phần Mở đầu, 3 chương nội dung, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 Sự hình thành và phát triển của chế độ tổng thống Mỹ 1.1. Sự hình thành chế độ tổng thống Mỹ Ngày 30/4/1789, trong rền vang tiếng đại bác và từng hồi chuông nhà thờ đổ dồn, đứng trên ban công toà nhà lớn ở góc phố Wall của Thủ đô lâm thời New York, trước sự hân hoan ngưỡng mộ của đông nghịt quần chúng, George Washington long trọng tuyên đọc diễn văn nhậm chức Tổng thống Hợp chúng quốc, chính thức khai sinh một mô hình nguyên thủ quốc gia hoàn toàn mới lạ trong lịch sử chính trị thế giới - chế độ tổng thống Mỹ. Bài diễn văn lời lẽ đơn sơ, buổi lễ cũng diễn ra ngắn ngủi, nhưng nó mang ý nghĩa tinh thần thật lớn lao và thiêng liêng. Nó là kết quả của cả một giai đoạn lịch sử phức tạp, gói ghém biết bao cố gắng, trí tuệ, tình cảm, mồ hôi, xương máu... trong khát vọng tự do, dân chủ, công lý, tiến bộ của toàn thể nhân dân Mỹ. Sau một thế kỷ rưỡi ồ ạt thăm dò, định cư, khai phá, xung đột, chinh phục và dựng xây, dân di cư châu Âu đã trở thành người chủ vững chắc của dải đất rộng lớn trù phú phía đông sông Mississippi. Bằng cố gắng bành trướng, đến năm 1763, Nhà nước Anh đã thiết lập được quyền lực của mình trên toàn bộ miền đất gồm 13 bang này. Quan hệ giữa 13 thuộc địa Bắc Mỹ với Đế quốc Anh tuy là hậu quả của lịch sử, nhưng không phù hợp với thực tế bấy giờ. Phơi phới sức trẻ và khao khát tự do, những người dân ngày càng cảm thấy ngột ngạt khi mà miền đất mới hùng mạnh, đầy tiềm năng của họ phải phụ thuộc vào một hòn đảo xa xôi, già cỗi và bảo thủ với chính thể quân chủ chuyên chế. Quan hệ đang dần trở nên gượng ép, hình thức và lỏng lẻo kia đột ngột suy thoái trầm trọng khi chính quyền Anh áp dụng hàng loạt biện pháp nhằm siết chặt sự cai quản. Việc hạn chế tự do chính trị và bòn rút kinh tế các thuộc địa Bắc Mỹ đã thổi bùng lên ngọn lửa chống Anh. Tháng 9/1774, dân cư 13 bang nhóm họp Đại hội Lục địa lần thứ nhất, kêu gọi Hoàng đế và Nghị viện Anh thay đổi chính sách đối với Bắc Mỹ. Không được đáp ứng, họ tổ chức tiếp Đại hội Lục địa lần thứ hai vào tháng 5/1775, thành lập quân đội để đấu tranh vũ trang. Ngày 4/7/1776, Đại hội Lục địa thông qua Tuyên ngôn Độc lập, cắt đứt mọi quan hệ phụ thuộc với Vương quốc Anh. Cuộc chiến tranh giành độc lập kéo dài từ năm 1776 cho đến năm 1783 và kết thúc bằng Hiệp ước Paris, trong đó Anh buộc phải công nhận nền độc lập của Hợp chúng quốc Mỹ gồm 13 bang thuộc địa trước đây. Sau khi tuyên bố độc lập, Đại hội Lục địa hoạt động như một cơ quan đại diện chung của các bang và gấp rút soạn thảo kế hoạch cho một liên bang. Đến ngày 1/3/1781, tất cả các bang đã phê chuẩn, chấp thuận bản Điều lệ Hợp bang (The Articles of Confederation), theo đó các bang thống nhất lại với nhau dưới sự điều hành của Hội đồng Hợp bang. Gồm thành viên là đại biểu của tất cả các bang, hoạt động theo nguyên tắc tập thể (các quyết định phải được đa số bang đồng ý - đặc biệt phải được không dưới 9 trên 13 bang tán thành nếu là quyết định quan trọng), Hội đồng Hợp bang có chức năng lãnh đạo hoạt động đối ngoại và quốc phòng, giải quyết những tranh chấp lãnh thổ giữa các bang, quy định tiêu chuẩn đo lường, tiền đúc, bưu chính và quan hệ với người da đỏ, còn các bang vẫn duy trì sự độc lập và chủ quyền đối với tất cả các lĩnh vực khác. Hội đồng Hợp bang, như vậy, mang dáng dấp của một quốc hội với chức năng đại diện và lập pháp hạn chế. Tuy đã tập hợp được các bang trong một cộng đồng chính trị và đưa ra nhiều biện pháp nhằm củng cố, phát triển liên bang, nhưng do thiếu vắng cả hệ thống cơ quan hành pháp lẫn tư pháp, nó không thiết lập được quyền lực quốc gia đủ mạnh để buộc các bang thi hành luật chung, áp đặt mức thuế, điều chỉnh ngân sách, kiểm soát thương mại, xây dựng quân đội .v.v... Hậu quả là đến đầu năm 1786, nước Mỹ suy sụp trầm trọng về mọi phương diện và liên bang bị đe dọa bởi nguy cơ tan rã. Những người có trách nhiệm liền quyết định phải triệu tập một hội nghị để kiếm tìm giải pháp cứu vãn, trong đó chắc chắn phải thiết lập một mô hình nhà nước liên bang hợp lý với nòng cốt là chế độ nguyên thủ quốc gia mạnh để khẳng định và tập trung quyền lực, cùng một hệ thống cơ quan hành pháp mạnh để quản lý xã hội hữu hiệu. Hội nghị khai mạc cuối tháng 5/1787 tại Philadelphia với sự tham dự của 55 đại biểu các bang (trừ Rhole Island) - phần lớn đều là những người ưu tú, còn khá trẻ nhưng giàu tri thức và kinh nghiệm chính trị Các đại biểu có độ tuổi trung bình khoảng 40 (những nhân vật sẽ góp phần quan trọng trong các cuộc tranh luận còn trẻ hơn nữa: Alexander Hamilton chỉ mới 30 tuổi và James Madison 36). Trong 55 người thì 39 đã từng tham dự các đại hội lục địa, 31 là luật gia và 22 có bằng cấp đại học. , đặc biệt đều có chung ý niệm về một liên bang thống nhất và hùng mạnh hơn. Họ tranh luận rất sôi nổi, thẳng thắn... để cố gắng cùng nhau soạn thảo ra một hiến pháp (constitution) làm nền tảng pháp lý cơ bản cho hệ thống chính trị tương lai của Hợp chúng quốc. Chế độ tổng thống Mỹ được đặc biệt chú ý và việc nó được quy định trong Hiến pháp cũng như áp dụng trong thực tế sau này bắt nguồn từ mớ quan điểm đa dạng và sự thảo luận nghiêm túc mà sôi động (đôi khi đến gay gắt) của các đại biểu: Ngày 25/5/1787, Hội nghị chính thức bắt đầu. Đoàn đại diện Virginia - bang trội nhất và có truyền thống chính trị nhất - chủ động đề xuất một dự án (gọi là Kế hoạch Virginia) Kế hoạch Virginia (Virginia plan) là các đề nghị bãi bỏ Điều lệ Hợp bang và thiết lập một chính quyền trung ương mạnh, được Edmun Randolph đệ trình lên Hội nghị Lập hiến năm 1787 (nó còn được gọi là Bản dự thảo Randolph, mặc dù phần lớn được James Madison viết) nhân danh toàn bộ đoàn đại biểu bang Virginia. Phần nhiều trong bản dự thảo cuối cùng đã được đưa vào Hiến pháp Mỹ, chẳng hạn như, một nền lập pháp lưỡng viện, một nền hành pháp và tư pháp toàn quốc, đại diện lập pháp căn cứ vào số dân theo điều tra dân số. nhằm thay thế Hội đồng Hợp bang bởi nhà nước trung ương mới gồm một cơ quan lập pháp toàn quốc, một cơ quan hành pháp toàn quốc và một cơ quan tư pháp toàn quốc. Cơ quan hành pháp - mà gồm cả một vài thành viên của cơ quan tư pháp - sẽ do cơ quan lập pháp chỉ định, có quyền xem xét, chấp thuận hay bác bỏ những đạo luật do cơ quan lập pháp toàn quốc hoặc các cơ quan lập pháp bang thông qua... Sau mấy ngày thảo luận về những vấn đề bức xúc nhất của liên bang, ngày 1/6, Hội nghị chuyển sang xem xét Mục 7 của Kế hoạch Virginia liên quan đến cơ quan hành pháp. Mục này đề nghị "cử một vị tổng thống" do cơ quan lập pháp toàn quốc bầu ra, để hoạt động trong một thời gian (không thấy nói rõ); tổng thống được bầu lại nhiệm kỳ thứ hai và chỉ được hưởng mức lương cố định trong suốt thời gian đương chức; "ngoài quyền thi hành pháp luật, tổng thống còn được hưởng quyền chấp hành mà liên bang từng giao cho Hội đồng Hợp bang" [15, tr.36]. Đại biểu Wilson liền đề xuất rằng cơ quan hành pháp chỉ gồm một nhân vật thôi và được đại biểu Pinckney ủng hộ. Sau một hồi tạm nghỉ, Chủ tịch Hội nghị Washington hỏi có nên nêu lại vấn đề không. Đại biểu Franklin cho đó là một điểm rất quan trọng và ông hy vọng các vị đại biểu sẽ trình bày ý kiến về vấn đề này trước khi đem ra tranh luận. Phần đông đại biểu do dự vì họ không thể nào nghĩ tới một vị tổng thống duy nhất mà không liên tưởng đến một vị vua. Cuộc cách mạng giành độc lập chẳng những đã chống lại nước Anh mà còn phủ nhận Vương triều Anh. Hoàng đế Anh George III bấy giờ là biểu tượng chuyên chế khét tiếng mà nhân dân Mỹ căm ghét. Không đại biểu nào tin rằng họ có thể quay lại chế độ quân chủ hoặc một bản hiến pháp ủng hộ chế độ đó lại được toàn dân Mỹ chấp thuận. Nhiều người thấy rõ nền quân chủ hại nhiều hơn lợi nhưng vẫn e ngại việc một vị tổng thống duy nhất dễ trở nên độc tài nếu ông ta đứng đầu một nền cộng hoà còn non trẻ, nhiều thành phần và nhiều biến động - những yếu tố thuận lợi thường dẫn đến kết cục là sự chuyên chế trung ương... Đại biểu Rutledge mở màn cuộc tranh luận bằng tuyên bố rằng các đại biểu được quyền tự do giãi bày quan điểm của họ mà không hề bị ràng buộc gì sau này. Riêng ông, ông tán thành có một vị tổng thống duy nhất, nhưng không muốn cho người đó quyền tuyên chiến và quyền ký kết điều ước quốc tế. Đại biểu Sherman cho rằng "tổng thống" chẳng qua là một công chức thuộc cơ quan lập pháp toàn quốc và cơ quan này - có nhiệm vụ chỉ định tổng thống - được quyền tự do chỉ định một hoặc nhiều vị tuỳ theo trường hợp. Wilson tán thành "một vị tổng thống duy nhất" vì chỉ có vậy tổng thống mới gánh vác được trọng trách một cách xứng đáng, linh động và đầy nghị lực; còn vài quyền do Hoàng đế Anh nắm giữ trước kia - như quyền tuyên chiến và ký kết điều ước - đều thuộc quyền lập pháp, không nên ban cho tổng thống Mỹ theo Kế hoạch Virginia. Đại biểu Gerry thì ủng hộ chủ trương lập thêm một hội đồng bên cạnh tổng thống để tạo ra sự khách quan và tín nhiệm. Đại biểu Randolph kịch liệt phản đối sự thống nhất trong cơ quan hành pháp, cho đấy là mầm mống của chế độ quân chủ và theo ông, bộ máy hành pháp liên bang phải gồm nhiều nhân vật - rất có thể là 3 người. Hội nghị vẫn chưa quyết định gì về sự lựa chọn phương án một hay nhiều vị tổng thống, mà chỉ nhất trí nên thành lập một cơ quan hành pháp toàn quốc. Tiếp theo, các đại biểu bàn tới vấn đề quyền hạn dành cho tổng thống. Ngày hôm đó, hội nghị thoả thuận rằng cơ quan hành pháp phải có quyền "thi hành pháp luật trong nước". Các đại biểu hoãn lại việc nghiên cứu phương pháp bầu cử để thảo luận thời gian nhiệm kỳ tổng thống. Lúc bỏ phiếu ủng hộ đề nghị nhiệm kỳ 7 năm, 5 bang bỏ phiếu thuận, 4 chống và 1 trắng (Massachusetts). Đến khi hội nghị bàn tới vấn đề "cách thức chỉ định", Wilson nhấn mạnh rằng tổng thống phải do dân bầu, cũng như đối với cơ quan lập pháp toàn quốc vậy. Đại biểu Mason rất tán đồng, nhưng e việc đó khó thực hiện được, tuy nhiên ông cũng hy vọng rằng Wilson sẽ có thời gian để nghĩ ra biện pháp thích hợp hơn. Ngày hôm sau (2/6), Wilson đưa ra một chương trình với mục đích cho nhân dân có thể lựa chọn tổng thống mà không cần sự can thiệp của các tiểu bang hoặc của cơ quan lập pháp toàn quốc. Theo đó, chia các tiểu bang ra thành nhiều quận, cho các cử tri bỏ phiếu bầu hội viên viện thứ nhất của cơ quan lập pháp toàn quốc rồi để những hội viên này lựa chọn những người xứng đáng trong các quận đi bỏ phiếu lập ra cơ quan hành pháp toàn quốc. Đồng thời, cho các cử tri bỏ phiếu theo bang - chứ không phải theo đầu người - để quyết định nên có một hay nhiều vị tổng thống. Chương trình này của Wilson bị phủ quyết phũ phàng với 8 phiếu chống 2 phiếu thuận (mặc dù sau này nội dung cơ bản của nó được Hiến pháp ghi nhận và áp dụng). Đến khi bàn tới vấn đề lương bổng, Franklin đề nghị rằng tổng thống sẽ được thanh toán chi phí cần thiết, nhưng không được hưởng lương hoặc tiền thưởng. Ông liệt kê một số viên chức cao cấp ở Pháp và Anh tuy chẳng có lương bổng gì mà công việc vẫn được thi hành chu đáo. Ông cũng nhắc lại phong tục của giáo dân Quaker hơn một thế kỷ trước đó từng ra phục vụ không công cho đoàn thể ở những chức vị khó nhọc. Ông còn minh hoạ bằng việc Washington suốt 8 năm (1775-1783) đảm nhiệm chức Tổng Chỉ huy Quân đội Lục địa Mỹ mà không hề hưởng đồng lương nào và khẳng định sẽ luôn tìm được những người như vậy ở Hợp chúng quốc. Đại biểu Hamilton ủng hộ và tăng cường quan điểm của Franklin bằng những lý lẽ sắc sảo. Tuy nhiên, phần đông đại biểu cho việc tổng thống không hưởng lương bổng là thiếu thực tế và coi Franklin giống "một triết gia cổ hủ hơn là một chính khách hiện đại" trong vấn đề này! Trở lại vấn đề tổng thống cá nhân hay tập thể, khi Rutledge đề nghị (và Pinckney ủng hộ) rằng chỉ nên lập một vị tổng thống thôi thì Randolph kiên quyết phản đối với 4 lý do: một là, nhân dân luôn chống lại mọi hình thức quân chủ trá hình; hai là, sự thống nhất không cần thiết lắm, và nhiều nhân vật cùng lãnh đạo cơ quan hành pháp cũng vẫn có khả năng để thực hiện các mục tiêu chung; ba là, sự tín nhiệm cần thiết sẽ không bao giờ được đặt hết cả vào một vị tổng thống duy nhất; bốn là, nên chỉ định một người cự ngụ gần trung tâm quốc gia làm tổng thống, và do đó những nơi xa xôi sẽ không được hưởng quyền bình đẳng. Randolph đề nghị nên có một hội đồng tổng thống gồm 3 nhân vật "thuộc các khu vực khác nhau trong nước". Cuộc bàn cãi tiếp diễn vào ngày 4/6 khi Wilson đứng lên chỉ trích Randolph là đã quá đề cao mục đích được lòng người mà ít chú ý đến tính thực tế và hiệu quả của vấn đề. Wilson tin chắc rằng nhân dân - sau khi thấy rõ "một vị tổng thống duy nhất đâu phải là một ông vua" - sẽ nhận thấy chế độ tổng thống cá nhân đâu có gì gọi là quân chủ trá hình. Trong cả 13 bang, đều có một vị nguyên thủ duy nhất ở mỗi bang (với tư cách thống đốc hoặc chủ tịch) mà "chưa bang nào nghĩ tới chuyện lập 3 nguyên thủ một lúc cả" [15, tr.40]. Cơ quan hành pháp toàn quốc nếu có 3 vị nguyên thủ cùng lúc thì sẽ chẳng còn gì là sức mạnh và sự ổn định nữa!... Đến khi biểu quyết, 3 bang (New York, Delaware, Maryland) bỏ phiếu chống, còn 7 bang khác đều tán thành mô hình tổng thống cá nhân. Tổng thống có quyền ngừng thi hành một đạo luật nào đó trong nhiều năm - đề xuất này của đại biểu Butler chỉ được Franklin ủng hộ, còn các đại biểu khác đồng loạt phản đối. Theo gợi ý của Gerry, mọi người dần nhất trí (trừ bang Connecticut và Maryland) là tổng thống có quyền phủ quyết một đạo luật mà đạo luật đó sau này chỉ có thể được thông qua với sự tán thành của ít nhất 2/3 số hội viên có mặt trong từng viện của cơ quan lập pháp toàn quốc. Nhưng Mason bất bình ra mặt: "Về vấn đề này chúng ta đã đi quá xa. Chúng ta hiện giờ không thành lập một chính phủ kiểu Anh nữa,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van Che do tong thong My02.doc
  • docBia nhu+Muc luc.doc
  • docPhu luc cdtt My.doc
Tài liệu liên quan