Cải cách tư pháp là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đề ra. Đảng ta đã có một số văn bản định hướng cho công tác này: Đó là Chỉ thị 53-CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị. Theo đó một trong những nội dung cơ bản là đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, hạn chế thấp nhất tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội.
Để đạt được mục đích là không truy tố, xét xử oan người vô tội. Nhà nước phải tạo ra cơ chế về tổ chức hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; cũng như đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; phải đảm bảo chất lượng của việc điều tra, truy tố; không truy tố người không có hành vi phạm tội.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra tòa xét xử phải đảm bảo các điều kiện theo luật định. Việc truy tố phải đảm bảo tính có căn cứ, có chứng cứ đầy đủ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật (là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự). Một khi điều tra nhưng thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng, chính xác; không được thu thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể, hành vi cụ thể của họ không đảm bảo các quy định để xác định là một tội phạm quy định trong BLHS thì không thể bị truy tố xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn tố tụng có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau. Ví như để xét xử đúng thì trước hết việc điều tra phải đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Tuy nhiên việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả điều tra xét hỏi tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo hay tuyên bố bị cáo không phạm tội. Do vậy, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là rất quan trọng; đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng để Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử ra các quyết định đúng pháp luật.
Mặt khác, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì việc xét xử các vụ án hình sự theo nguyên tắc xét xử hai cấp. Do đó, sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị vụ án sẽ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Nguyên tắc hai cấp xét xử giúp cho việc xét xử của Toà án chính xác hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác theo luật định được đảm bảo. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp - Theo Điều 170 thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp huyện) được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Theo đó Toà án cấp huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt đến 15 năm. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) xét xử những vụ án còn lại - cá biệt có thể xét xử vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới khi thấy cần thiết. Như vậy, xét xử các vụ án thuộc cấp tỉnh là những vụ án thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thường là những vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo tham gia và địa bàn hoạt động tội phạm rất rộng trong quốc gia hoặc có thể là tội phạm xuyên quốc gia, do đó, khi có kháng án, kháng nghị thì xét xử phúc thẩm của Toà án tối cao cũng đều là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới về phương thức hoạt động, có tư duy mang tính chiến lược mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; đảm bảo cho việc xét xử chính xác, đúng pháp luật, sửa chữa, khắc phục được các thiếu sót của sơ thẩm cấp tỉnh mà lý do có thể do nhận thức chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao hoặc có thể do quy định, hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa đầy đủ.
108 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở việt nam
Hà Nội - 2009
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
7
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
7
1.2. Khái niệm tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
29
Chương 2: thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam từ 2003 đến nay
38
2.1. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
38
2.2. Khái quát chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
42
2.3. Nguyên nhân và vấn đề pháp lý đặt ra
66
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
73
3.1. Những yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
73
3.2. Giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
79
3.3. Một số kiến nghị
91
kết luận
99
danh mục các công trình của tác giả
101
Danh mục tài liệu tham khảo
102
Danh mục các bảng trong luận văn
Trang
Bảng 2.1: Tình hình số án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong toàn quốc
39
Bảng 2.2: Số án có kháng cáo, kháng nghị toàn quốc
41
Bảng 2.3: Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm
44
Bảng 2.4: Số án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được đề nghị cấp giám đốc thẩm xem xét (2003-2008)
60
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đề ra. Đảng ta đã có một số văn bản định hướng cho công tác này: Đó là Chỉ thị 53-CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị. Theo đó một trong những nội dung cơ bản là đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, hạn chế thấp nhất tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội.
Để đạt được mục đích là không truy tố, xét xử oan người vô tội. Nhà nước phải tạo ra cơ chế về tổ chức hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; cũng như đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; phải đảm bảo chất lượng của việc điều tra, truy tố; không truy tố người không có hành vi phạm tội.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra tòa xét xử phải đảm bảo các điều kiện theo luật định. Việc truy tố phải đảm bảo tính có căn cứ, có chứng cứ đầy đủ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật (là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự). Một khi điều tra nhưng thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng, chính xác; không được thu thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể, hành vi cụ thể của họ không đảm bảo các quy định để xác định là một tội phạm quy định trong BLHS thì không thể bị truy tố xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn tố tụng có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau. Ví như để xét xử đúng thì trước hết việc điều tra phải đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật... Tuy nhiên việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả điều tra xét hỏi tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo hay tuyên bố bị cáo không phạm tội. Do vậy, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là rất quan trọng; đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng để Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử ra các quyết định đúng pháp luật.
Mặt khác, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì việc xét xử các vụ án hình sự theo nguyên tắc xét xử hai cấp. Do đó, sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị vụ án sẽ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Nguyên tắc hai cấp xét xử giúp cho việc xét xử của Toà án chính xác hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác theo luật định được đảm bảo. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp - Theo Điều 170 thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp huyện) được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Theo đó Toà án cấp huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt đến 15 năm. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) xét xử những vụ án còn lại - cá biệt có thể xét xử vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới khi thấy cần thiết. Như vậy, xét xử các vụ án thuộc cấp tỉnh là những vụ án thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thường là những vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo tham gia và địa bàn hoạt động tội phạm rất rộng trong quốc gia hoặc có thể là tội phạm xuyên quốc gia, do đó, khi có kháng án, kháng nghị thì xét xử phúc thẩm của Toà án tối cao cũng đều là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới về phương thức hoạt động, có tư duy mang tính chiến lược mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; đảm bảo cho việc xét xử chính xác, đúng pháp luật, sửa chữa, khắc phục được các thiếu sót của sơ thẩm cấp tỉnh mà lý do có thể do nhận thức chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao hoặc có thể do quy định, hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa đầy đủ.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài " Chất lượng thực hành quyền cụng tố của kiểm sỏt viờn Viện Kiểm sỏt nhõn dõn tối cao trong xột xử phỳc thẩm cỏc vụ ỏn hỡnh sự " làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Theo tác giả được biết thì ngoài một số đề tài nghiên cứu và luận văn thạc sĩ có đề cập đến việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung. Trong một vài năm qua ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chuyên đề của Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đề cập đến việc "Nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự các vụ án hình sự có bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội". Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Hà Nội có đề tài "Nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự".
Các đề tài nghiên cứu liên quan đến chất lượng của cán bộ công chức nhà nước nói chung có các công trình tiêu biểu sau đây:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Hà Giang (2005), Lê Đình Vĩ, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Vũ Viết Tuấn, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Kiên Giang hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Dung.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Trần ánh Dương.
- Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Hòa.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Toà án nhân dân ở nước ta hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Tú.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (2006), Luận văn thạc sĩ của Suc Ni Lan Đon Kun Lạ Vông.
- Nâng cao chất lượng công tác pháp chế trong ngành công nghiệp ở nước ta hiện nay (2007), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Vỵ…
Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên mới đề cập đến những khía cạnh nhất định hoặc đề cập những vấn đề chung nhất. Đề tài này chỉ tập trung đến những vấn đề về chất lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự các vụ án hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan sai người vô tội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến chất lượng thực hành quyền công tố các vụ án hình sự ở cấp phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc Viện Kiểm sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, đồng thời khắc phục được các sai sót của cấp sơ thẩm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng pháp luật không làm oan sai. Đề tài không nghiên cứu việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nói chung ở những giai đoạn tố tụng trước đó.
Thời gian nghiên cứu: Đề tài xác định nghiên cứu trong thời gian sau khi thi hành bộ luật hình sự 1999 và bộ luật tố tụng hình sự 2003; việc áp dụng các quy định của 2 bộ luật này (phần thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong thực tiễn hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân trong thời gian qua.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận cứ lý luận, các điều kiện - phương pháp bảo đảm việc truy tố, xét xử hình sự đúng người đúng tội, đúng pháp luật - không làm oan người vô tội.
Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta cũng như lý luận chung về Nhà nước, pháp luật nhất là chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Từ đó xây dựng đề ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử hình sự các vụ án hình sự, đảm bảo cho việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, sai cho người không phạm tội. Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự của bộ luật hình sự 1999; bộ luật tố tụng hình sự 2003; đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp mà Nghị quyết 48, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đề ra.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ bản của việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
- Phân tích làm rõ những vấn đề trong hoạt động tố tụng hình sự để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng sau khi đã được xét xử phúc thẩm nhưng tình trạng khiếu nại oan sai vẫn còn phổ biến.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, những thiếu sót tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố của lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
- Đề xuất các quan điểm, luận chứng các giải pháp để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp tối cao.
- Chỉ ra những bất cập quy định trong bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự và thực tiễn của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên quan đến tình trạng án phúc thẩm còn oan sai.
- Đề ra các giải pháp cụ thể để thiết thực nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo đảm không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ phạm tội.
6. Đóng góp mới của luận văn
Là việc nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Đề cập trực tiếp và tương đối toàn diện các vấn đề về lý luận, thực tiễn trong thực hiện pháp luật, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội.
Đề tài sẽ đặt ra một số vấn đề góp phần sửa đổi bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự theo hướng cụ thể hơn, rõ ràng hơn để việc thực thi pháp luật của các cơ quan cũng như người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng áp dụng thống nhất - hạn chế việc xét xử không đúng pháp luật. Đồng thời chỉ ra các nguyên nhân: Khách quan, chủ quan dẫn đến việc xét xử chưa đúng pháp luật ở cấp phúc thẩm. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn luận văn đặt ra những giải pháp cụ thể nhất là các giải pháp trong quản lý chỉ đạo điều hành nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7. ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Nghiên cứu một số khái niệm, phạm trù liên quan đến thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Xác định những vấn đề liên quan đến điều kiện đảm bảo chất lượng quyền công tố Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát chống oan sai trong truy tố xét xử các vụ án hình sự.
- ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền nói chung và cho ngành Kiểm sát nói riêng trong hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự cũng như đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của ngành Kiểm sát đối với công tác này - góp phần làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào tạo của ngành luật.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1. khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
Quyền công tố trong quá trình tồn tại cùng chiều dài lịch sử, cho đến ngày nay vẫn còn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, tựu chung lại chúng tôi thấy một số quan điểm cơ bản, trước khi đưa ra khái niệm quyền công tố.
Quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển khoa học pháp lý. Khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần có một cơ quan Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền xét xử. Đại diện tư tưởng này phải kể tới F. Fosthoft viết trong cuốn “Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh” [16, tr.272].
Quan điểm thứ hai lại đưa ra quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ các quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên toà và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (điều này cho thấy, quyền công tố có thể nằm trong cơ cấu của tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là “mối liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật” [17, tr.169, 182-1990, 285-300]. Trong cuốn sách này, Hessische và cộng sự đã định nghĩa quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì phải có một cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng “chống” lại quyền xét xử nhằm bảo vệ các đạo luật và các thể nhân bị toà xét xử. Đó là quyền công tố.
Quan điểm thứ ba: Sau khi chế độ phong kiến tan rã, con người đã tách toà án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy quyền công tố không xuất hiện cùng với Nhà nước nhưng lịch sử của nó gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và sự phân chia quyền lực trong bộ máy Nhà nước, gắn với sự phát triển và văn minh của pháp luật. Còn trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và họ đại diện cho nhà vua để xét xử, chứ không đại diện cho công quyền. Theo tác giả Vũ Mộc viết: Quyền công tố là người đại diện cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra toà án). Quyền công tố không xuất hiện cùng với Nhà nước mà nó chỉ xuất hiện cùng toà án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [19, tr.118 - 119].
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện [28, tr.86].
Qua những quan điểm trên, tựu chung chúng tôi thấy ba quan điểm đầu các tác giả đều dựa trên cơ sở chung khi xác định sự xuất hiện quyền công tố, gắn quyền công tố với vấn đề dân chủ. Theo quan điểm này ta thấy quyền công tố là kết quả trực tiếp và tất yếu của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Từ những kinh nghiệm thực tế và kết quả của sự tổng kết những lý thuyết chung cho thấy sự xuất hiện của quyền công tố chưa có sức thuyết phục bởi tính thiếu căn cứ. Từ thực tế khi nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự chia quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên đồng nhất giữa sự ra đời cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (khái niệm pháp lý). Quan điểm thứ tư đã cho ta thấy quyền công tố luôn gắn với bản chất của nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Quan điểm này coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội (theo quan điểm của giai cấp thống trị xã hội). Như vậy, khi Nhà nước xuất hiện thì đồng thời cũng dẫn tới sự ra đời của quyền công tố và Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý xã hội nhằm đấu tranh với tội phạm theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong đó quy định tất cả các hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp nào thống trị có được quyền lực Nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự. Bởi vì pháp luật hình sự là công cụ để chuyên chính giai cấp hữu hiệu nhất. Khi một hành vi được coi là phạm tội được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này Nhà nước là chủ thể sử dụng quyền của mình (quyền lực công) để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu những chế tài hình sự do Nhà nước quy định và áp dụng sự buộc tội nhân danh Nhà nước được gọi là quyền công tố.
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước nó xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, tồn tại khi còn Nhà nước và mất đi khi không còn Nhà nước [26].
Khi nghiên cứu về khái niệm quyền công tố, chúng tôi thấy sự xuất hiện khái niệm có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm quyền công tố, đó là tư tố. Cả hai khái niệm này cùng xuất hiện, tồn tại và phát triển, có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong quá trình tìm hiểu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cho chúng tôi thấy, “công tố” và “tự tố” là khái niệm pháp lý xuất hiện rất sớm trong pháp luật của các Nhà nước cổ đại. Tư tố là một chế định pháp lý thuộc loại cổ xưa nhất mà pháp luật cổ đại cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố chống lại người đã thực hiện những hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Quyền này của người bị hại (hoặc người thân thích của họ) được gọi là “quyền tư tố”; người đứng ra khởi tố vụ án được gọi là “tư tố viên” và các vụ án như thế này gọi là “án tư tố” [5, tr.171-179].
Những vụ án tư tố, các tư tố viên giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Họ không chỉ toàn quyền cung cấp các chứng cứ, thực hiện việc buộc tội bị cáo trước tòa và đề nghị chế tài hình sự, bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội mà còn có thể kết thúc quá trình tố tụng bằng việc hòa giải (thỏa thuận) với người phạm tội. Quyền tư tố do người bị hại trực tiếp thực hiện nhân danh cá nhân để bảo vệ của bản thân trước tòa (hoặc có thể nhờ người khác thay mặt mình thực hiện quyền này).
Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xưa được xuất phát từ quan niệm của mọi người cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích cá nhân bị người khác xâm hại là việc riêng tư của từng người. Nhà nước không thấy cần thiết phải can thiệp vào những việc đó. Còn nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế định đó là do sự phát triển yếu kém của pháp luật và Nhà nước lúc bấy giờ. Trong điều kiện như vậy, quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích mang tính chất công cộng của Nhà nước (của giai cấp thống trị và của các cộng đồng (xã hội). Do nhiều yếu tố nên tư tố ngày càng bị thu hẹp. Điều này chúng ta cũng dễ hiểu vì: Khi người ta muốn thực hiện một vụ án tư tố phải rất tốn kém về thời gian, tiền của, công sức cho quá trình thu thập chứng cứ, đảm bảo sự có mặt của nhân chứng cho đến việc thực hiện việc buộc tội trước Tòa án. Như thế, không phải ai cũng đủ điều kiện và khả năng làm việc trên, nếu thuê luật sư thì rất tốn kém không phải ai cũng làm được. Mặt khác pháp luật lại cho hòa giải, thỏa thuận với người phạm tội đã dẫn tới tình trạng nhiều vụ án nghiêm trọng (xét về trật tự xã hội) không bị xét xử và trừng trị. Điều này làm cho pháp luật không nghiêm minh, công bằng xã hội không được đảm bảo. Từ những nguyên nhân trên, dẫn đến Nhà nước thấy cần thiết phải can thiệp và quá trình án tư tố trong những trường hợp người bị hại không muốn thực hiện quyền tư tố, nhằm bảo đảm lợi ích công.
Như vậy, trong quá trình phát triển của xã hội cũng như của bộ máy Nhà nước và pháp luật, cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp hình sự đã có những thay đổi căn bản. Từ chỗ vận hành theo quyền tư tố là chủ yếu, tố tụng hình sự chuyển sang vận hành chủ yếu dựa vào quyền công tố. Vai trò công tố càng trở nên quan trọng và đứng ra giải quyết các vụ án hình sự ở hầu khắp các quốc gia như ngày nay. Như vậy, công tố viên vừa là người đại diện cho công quyền (nhân danh Nhà nước), vừa thay mặt người bị hại đứng ra buộc tội bị cáo, công tố viên hành động vì xã hội và bảo vệ không chỉ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng, nhằm đảm bảo sự công bằng của xã hội.
Trước những ưu việt trên, hầu hết các quốc gia trên thế giới, tư tố tồn tại song song với công tố. Nhưng phạm vi và vai trò áp dụng của nó dần dần thu hẹp và chuyển xuống hàng thứ hai sau công tố. Nội dung của quyền tư tố cũng dần dần bị thu hẹp và thông thường chỉ bao gồm quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi thường thiệt hại và thực hiện buộc tội bị cáo trước Tòa án đối với bị cáo trong các vụ án tư tố. Trong một số ít quốc gia theo hệ thống pháp luật lục địa, tư tố vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết một số loại án tư tố. Tại các quốc gia này chỉ có người bị hại mới có quyền khởi tố đối với các vụ án ít nghiêm trọng như tội vu khống, làm nhục người khác, gây thương tích nhẹ hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản… Trong các vụ án này các công tố viên được gọi là bên chính tố, người bị hại được gọi là bên phụ tố (người truy tố phụ), thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án hoàn toàn độc lập với công tố viên (Bộ Tư pháp - đã dẫn).
Khái niệm quyền công tố được Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” khi đề cập tới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc