Luận văn Chất lượng sản phẩm với việc nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty 22

Sau khi Việt Nam gia nhập khối AFTA và APEC, hàng rào thuế quan phải hạ dần cho đến năm 2006, trước tình hình đó các doanh nghiệp trong nước phải chịu sức ép từ nhiều phía. Đặc biệt sau các cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á, hàng nội của ta càng bị cạnh tranh gay gắt ngay cả trong nước. Đó là điều tất yếu bởi lẽ hoạt động trong nền kinh tế thị trường điều bắt buộc là phải cạnh tranh, không chấp nhận cạnh tranh cũng có nghĩa là tự đem tiền bạc và danh dự đổ đi. Nhưng chỉ chấp nhận cạnh tranh không thôi mà đã đem vốn liếng tài sản ra kinh doanh thì đó là hành động liều mạng.Vì vậy, để tồn tại, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh lành mạnh và thích hợp.

Để thành công, người kinh doanh phải có được trong tay mình vũ khí hoàn hảo và sắc bén để cạnh tranh thị trường. Chất lượng sản phẩm được coi như vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất. Bởi lẽ hàng hoá có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện mở rộng khả năng xuất khẩu. Không ngừng cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá là tiền đề quan trọng để hàng hoá một nước có khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới, hay nói cách khác đó là tiền đề để hoà nhập vào thị trường khu vực, vào thị trường thế giới, tạo điều kiện để phát triển kinh tế của nước nhà.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thành công trên thương trường là các doanh nghiệp đã quan tâm đến vấn đề chất lượng, đã thực thi và duy trì các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại công ty 22, em mạnh dạn nghiên cứu đề tài: ” Chất lượng sản phẩm với việc nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty 22.”

 

Kết cấu luận văn ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 chương:

* Chương I: Chất lượng sản phẩm và vai trò đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

* Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty 22

* Chương III: Đánh giá những ưu nhược điểm và một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh của công ty 22.

 

doc40 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chất lượng sản phẩm với việc nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty 22, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Sau khi Việt Nam gia nhập khối AFTA và APEC, hàng rào thuế quan phải hạ dần cho đến năm 2006, trước tình hình đó các doanh nghiệp trong nước phải chịu sức ép từ nhiều phía. Đặc biệt sau các cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam á, hàng nội của ta càng bị cạnh tranh gay gắt ngay cả trong nước. Đó là điều tất yếu bởi lẽ hoạt động trong nền kinh tế thị trường điều bắt buộc là phải cạnh tranh, không chấp nhận cạnh tranh cũng có nghĩa là tự đem tiền bạc và danh dự đổ đi. Nhưng chỉ chấp nhận cạnh tranh không thôi mà đã đem vốn liếng tài sản ra kinh doanh thì đó là hành động liều mạng.Vì vậy, để tồn tại, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh lành mạnh và thích hợp. Để thành công, người kinh doanh phải có được trong tay mình vũ khí hoàn hảo và sắc bén để cạnh tranh thị trường. Chất lượng sản phẩm được coi như vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất. Bởi lẽ hàng hoá có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện mở rộng khả năng xuất khẩu. Không ngừng cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá là tiền đề quan trọng để hàng hoá một nước có khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới, hay nói cách khác đó là tiền đề để hoà nhập vào thị trường khu vực, vào thị trường thế giới, tạo điều kiện để phát triển kinh tế của nước nhà. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thành công trên thương trường là các doanh nghiệp đã quan tâm đến vấn đề chất lượng, đã thực thi và duy trì các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại công ty 22, em mạnh dạn nghiên cứu đề tài: ” Chất lượng sản phẩm với việc nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty 22.” Kết cấu luận văn ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 chương: * Chương I: Chất lượng sản phẩm và vai trò đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty 22 * Chương III: Đánh giá những ưu nhược điểm và một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh của công ty 22. Chương I: Chất lượng sản phẩm và vai trò đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1.Chất lượng sản phẩm: 1.1. Các quan niệm về chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có nhiều định nghĩa, khái niệm về chất lượng sản phẩm bởi lẽ vấn đề này được hầu hết các tổ chức và các quốc gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu nhưng chúng ta có thể xem xét nghiên cứu một số quan niệm sau: Theo quan điểm của triết học, chất lượng là một phần tồn tại cơ bản bên trong của các sự vật và hiện tượng. Theo C.Mác thì, chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng sản phẩm. Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì “ chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc điểm kinh tế kỹ thuật nội tại, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế kỹ thuật”. Đứng trên góc độ xem xét sản phẩm ta quan niệm chất lượng sản phẩm là toàn bộ những thuộc tính phản ánh chức năng, công dụng, tác dụng của sản phẩm. Những đặc tính này có thể đo lường được một cách chính xác và số lượng các thuộc tính càng nhiều thì chất lượng sản phẩm càng cao Philip Crosby, nhà làm công tác chất lượng hàng đầu của thế giới, người Mỹ, cho rằng: “ Chất lượng là sự phù hợp với những nhu cầu hay đặc tính nhất định “. Định nghĩa này rất có ý nghĩa trong sản xuất hàng loạt lớn và sử dụng lắp lẫn các chi tiết. Giá trị của định nghĩa này là ở chỗ nó cho phép đo được chất lượng. Khi đã đo được thì có thể đánh giá được hoạt động chất lượng. Còn theo Feigen Baun thì “ Chất lượng của sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm”. Joseph Juran, một nhà chất lượng người Mỹ, đã nhận thấy rằng các yêu cầu về quy phạm có thể là những thứ mà ban quản lý và các nhà thiết kế cho là phù hợp nhưng lại không phải là cái mà khách hàng cần. Do đó, theo ông “ chất lượng là sự phù hợp với mục đích”. Định nghĩa này của Juran thừa nhận rằng một sản phẩm hoặc một dịch vụ được tạo ra với ý đồ là để thoả mãn một nhu cầu nào đó của khách hàng. Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO thì “ chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn” ( ISO 8402 - 1994). Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN 5814 - 1994). Các quan niệm trên là khác nhau nhưng tựu trung lại ta thấy khi nói đến chất lượng sản phẩm cần chú ý các điểm sau: - Chất lượng sản phẩm phải được xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng. - Chất lượng sản phẩm phải phù hợp với công dụng, với mục đích chế tạo, với nhu cầu của thị trường. - Chất lượng sản phẩm mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thồng tiêu dùng, thị hiếu của người dân. 1.2. Đặc tính của chất lượng sản phẩm : Chất lượng sản phẩm được tạo nên phụ thuộc phần lớn vào công nghệ kỹ thuật nhưng nó phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Trong các xã hội khác nhau với cơ chế quản lý kinh tế khác nhau thì quan niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chất lượng sản phẩm chỉ đơn thuần là thoả mãn các chỉ tiêu kỹ thuật nhưng trong cơ chế thị trường chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. 1.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm: Chỉ tiêu chất lượng là đặc trưng định lượng của các thuộc tính cấu thành nên chất lượng sản phẩm. Những đặc trưng này được xem xét, đánh giá trong những điều kiện nhất định của quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm * Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng trong chiến lược phát triển kinh tế. * Hệ thống các chỉ tiêu kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để đánh giá và phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các doanh nghiệp đối với hầu hết các loại sản phẩm ta còn có các chỉ tiêu cụ thể sau: * Tỷ lệ sai hỏng : để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất. Dùng thước đo hiện vật, ta có: Số lượng sản phẩm sai hỏng Tỷ lệ sai hỏng = ----------------------------------------- x 100 Tổng số sản phẩm sản xuất Trong đó sản phẩm sai hỏng bao gồm sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. Dùng thước đo giá trị, ta có: Chi phí sản xuất sản phẩm hỏng Tỷ lệ sai hỏng = -------------------------------------------- x 100 Tổng chi phí sản xuất sản phẩm * Tỷ lệ đạt chất lượng: Số sản phẩm đạt chất lượng Tỷ lệ đạt chất lượng = --------------------------------------- x 100 Tổng sản phẩm sản xuất * Hệ số thiệt hại sản phẩm hỏng : Thiệt hại sản phẩm hỏng + Thiệt hại sửa chữa sản phẩm hỏng sửa chữa được Hh = --------------------------------------------------------------------------- x 100 Tổng chi phí sản xuất sản phẩm 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. */. Nhu cầu của thị trường. */. Trình độ khoa học công nghệ */. Hiệu lực của cơ chế quản lý. */. Những yếu tố về văn hoá, truyền thống, thói quen. */. Những yếu tố vi mô. - Con người: Bao gồm người lãnh đạo các cấp, công nhân và người tiêu dùng. Sự hiểu biết và tinh thần của mọi người trong hệ thống sẽ quyết định rất lớn đến việc hình thành chất lượng sản phẩm. -Thiết bị công nghệ: Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp phải luôn gắn liền với trình độ công nghệ trên thế giới. - Nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành sản phẩm nên chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng sản phẩm cao từ nguyên vật liệu có chất lượng tồi. - Phương pháp quản trị: Phương pháp quản trị nói chung và quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp.Các yếu tố vi mô trong doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm được khái quát theo quy tắc 4M sau: Sơ đồ 1: Quy tắc 4M ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm MACHINES Thiết bị Công nghệ MEN Lãnh đạo, công nhân, người tiêu dùng MATERIALS Vật liệu Năng lượng METHODS Phương pháp quản trị Chất lượng Sản phẩm 2. Vai trò của nâng cao chất lượng sản phẩm đối với việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.1. Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh. 2.1.1. Khái quát về cạnh tranh. Trong hình thức trao đổi hàng hoá trực tiếp, sự trao đổi đã được thoả thuận, nhu cầu được xác định qua kinh nghiệm tiêu thụ của cả hai bên mua và bán. Hàng hoá sản xuất ra gần như phù hợp với nhu cầu của mỗi bên. Vì vậy chưa phát sinh tính cạnh tranh. Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh, động lực phát triển sản xuất. Đối với doanh nghiệp, cạnh tranh có nghĩa là đảm bảo duy trì và phát triển vị trí trên thị trường trong nước và thế giới. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh là đánh giá nó có thể đứng vững cùng với các nhà sản xuất khác, với mức giá thấp hơn cho sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp mua bán hàng hoá dịch vụ khác ngành với nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá hay dịch vụ nhằm giành lấy các điều kiện có lợi nhất trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá dịch vụ ấy. 2.1.2. Các hình thức cạnh tranh. Cạnh tranh bằng sản phẩm. Đây là một trong những hình thức cạnh tranh quan trọng nhất, chữ tín của doanh nghiệp tạo ra lợi thế có tính quyết định cho cạnh tranh. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nắm bắt nhu cầu thị trường với các doanh nghiệp hiện nay, chất lượng của sản phẩm, tính thích dụng của sản phẩm được coi là những khía cạnh quan trọng trong cạnh tranh bằng sản phẩm., cạnh tranh bằng sản phẩm còn thông qua phương diện bao bì, mẫu mã, nhãn mác, biểt tượng đặc thù của từng loại sản phẩm. Sự điển hình về thiết kế hoặc danh tiếng sản phẩm, đặc tính của các sản phẩm tạo uy tín cho doanh nghiệp, nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh bằng giá. Các doanh nghiệp đưa sản phẩm của mình vào thị trường đối thủ cạnh tranh, sử dụng giá thấp hoặc giá ưu đãi để bán hàng. Như vậy, doanh nghiệp sẽ thu hút được người tiêu dùng và hơn nữa thu hút được cả lực lượng bán hàng của đối thủ cạnh tranh chuyển sang bán sản phẩm của doanh nghiệp vì họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, nếu định giá so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải khảo sát giá của đối thủ, tìm hiểu những lợi thế của đối thủ để xem lợi thế doanh nghiệp mình có mạnh hơn không. Doanh nghiệp có thể cạnh tranh thông qua việc hạ giá. Trong cạnh tranh bằng giá, hạ giá là biện pháp được sử dụng nhiều nhất. Cạnh tranh bằng việc dùng giá ưu đãi là một trong những công cụ có thế lực rất mạnh trong thương trường, giá ưu đãi thường là mức giá thấp hoặc rất thấp, do đó nó trở thành yếu tố lợi ích hấp dẫn đối với người mua. Khi thu nhập của người dân còn thấp thì giá cả là vấn đề nhạy bén: một sự giảm giá có thể đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, một sự tăng giá có thể chắt lọc thị trường. Nhưng khi thu nhập cao, người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn đến công dụng, đến giá trị sử dụng của sản phẩm, giá cả là vấn đề quan trọng nhưng không phải là quan trọng nhất. Vì vậy, định giá sản phẩm phải được kết hợp với các công cụ cạnh tranh khác như phương thức thanh toán, hệ thống bán hàng... thì mới tạo cho doanh nghiệp vị thế cạnh tranh tốt. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối và bán hàng. Hình thức này được thực hiện thông qua hệ thống kênh bán hàng phong phú của các doanh nghiệp.Khi bước sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lo vấn đề tiêu thụ. Sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được càng nhiều thì quá trình của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Và để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiêu thụ, các doanh nghiệp này đã xây dựng những hệ thống phân phối cho riêng mình. Đó có thể là các đại lý hoặc cửa hàng và những người trung gian bán hàng cho doanh nghiệp tạo thành kênh tiêu thụ, có các biện pháp để quản lý chặt chẽ và điều khiển những người bán hàng. Và như vậy hệ thống kênh tiêu thụ trở thành một thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh bằng các dịch vụ bán và dịch vụ sau khi bán. Có thể thấy đây là hình thức cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng. Thông qua hình thức này doanh nghiệp đánh trực tiếp vào tâm lý người tiêu dùng bằng các biện pháp như tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc thanh toán cho cả đôi bên, có biện pháp tiếp nhận thông tin phản hồi của khách hàng một cách nhanh nhất. Các dịch vụ bán có thể là đưa hàng đến tận nơi khách hàng yêu cầu, hướng dẫn cách sử dụng hoặc lắp đặt cho khách ...Doanh nghiệp cũng đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng một cách tốt nhất, công bằng nhất, thường xuyên cung cấp những dịch vụ sau khi bán hàng cho người sử dụng, đặc biệt là với những sản phẩm có bảo hành. Khuyến mãi cũng là một biện pháp trong hình thức cạnh tranh này. Với biện pháp này, doanh nghiệp tạo ra lợi ích vật chất cho mỗi khách hàng tuy không lớn nhưng lại có tác dụng kích cầu rất mạnh. Cạnh tranh bằng thời cơ thị trường. Doanh nghiệp nào dự báo được thời cơ thị trường và nắm được thời cơ thị trường thì sẽ chiến thắng trong kinh doanh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do sự thay đổi của các yếu tố môi trường, xu thế và trào lưu tiêu dùng, quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp....Cạnh tranh bằng thời cơ thị trường được thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo được sự thay đổi, từ đó có chính sách khai thác thị trường hợp lý và sớm hơn các doanh nghiệp khác. Cạnh tranh bằng thời gian và không gian. Hình thức cạnh tranh này xuất hiện khi những vấn đề về chính sách sản phẩm và chính sách giá ở trên thị trường của các doanh nghiệp tương đối ổn định, sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh không lớn.. Để thực hiện việc bán hàng thuận tiện và nhanh cần xử lý một loạt những vấn đề như ký kết hợp đồng nhanh, thực hiện các điều kiện bán hàng và thủ tục thanh toán nhanh, tạo lập chữ tín giữa người mua và người bán. 2.2 Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chất lượng sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng nhất để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao tạo điều kiện quan trọng cho tăng cường đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có hệ thống chất lượng tiên tiến thích hợp sẽ là điều kiện để đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu tăng khả năng cạnh tranh. Nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm được thế mạnh cạnh tranh của mình. Chất lượng sản phẩm là một trong những chiến lược cạnh tranh cơ bản của rất nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Nhờ chất lượng sản phẩm dịch vụ cao làm tăng danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường, tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp…Trong nền kinh tế bao cấp khi cung nhỏ hơn cầu, người tiêu dùng không có quyền lựa chọn, họ phải mua các mặt hàng thiết yếu bất kể chất lượng tốt xấu. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có quyền lựa chọn những sản phẩm phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng thanh toán của họ. Với điều kiện giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất của người tiêu dùng thì chất lượng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất của người sản xuất. Chất lượng sản phẩm là tiêu chuẩn tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm, làm cho sản phẩm chiếm được sự mến mộ của khách hàng, tạo nên tài sản vô hình cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đồng nghĩa với nâng cao tính hữu ích của sản phẩm, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm nhờ hoàn thiện quá trình, đổi mới, cải tiến các hoạt động, giảm những lãng phí, phế phẩm hoặc công việc phải sửa lại. Kết quả là một chuỗi các phản ứng: giảm chi phí, tăng mức thoả mãn nhu cầu, thu hút thêm khách hàng, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tăng vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo nhiều việc làm, thoả mãn nhu cầu của người lao động. Tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày càng nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm tiêu thụ được nhiều hơn, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng cơ cấu sản phẩm, tăng thị phần chiếm lĩnh thị trường mới, tăng sức mạnh kinh tế, nâng cao thu nhập của người lao động, tăng khả năng tái đầu tư phát triển tài sản và quá trình. Điều đó lại tạo điều kiện cho năng suất, chất lượng tăng lên và nó lại tiếp tục làm tăng khả năng cạnh tranh. Nâng cao khả năng cạnh tranh là nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm, vì vậy phải sử dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau và nâng cao chất lượng sản phẩm được coi là biện pháp “ số một”. Như vậy, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ tỉ lệ thuận, bổ sung cho nhau, tạo điều kiện cho nhau trong chiến lược phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Công thức cạnh tranh sau đây cho thấy tác động của năng suất chất lượng đến khả năng cạnh tranh của các nước và các doanh nghiệp. Tài sản cạnh tranh x Quá trình cạnh tranh = Khả năng cạnh tranh trên thế giới - Cơ sở hạ tầng - Chất lượng - Thị phần - Tài chính - Thời gian - Lợi nhuận - Công nghệ - Thoả mãn khách hàng - Tăng trưởng - Con người - Dịch vụ - Tính dài hạn Như vậy, cạnh tranh trước hết là khả năng cạnh tranh về tất cả các yếu tố sản xuất, cạnh tranh về quá trình nhằm sử dụng các nguồn lực tiết kiệm hơn, có hiệu quả hơn nhưng tạo ra chất lượng cao hơn thoả mãn nhu cầu của thị trường với chi phí thấp nhất. Theo quan niệm truyền thống, khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào những lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên và nhân lực. Nhưng ngày nay điều này không thể giải thích được cho các nước có nguồn tài nguyên nghèo nàn nhưng khả năng cạnh tranh lại cao do năng suất cao hơn, sử dụng tối ưu các nguồn lực. Để hiểu hơn về công thức trên, ta quan sát sơ đồ 2 Sơ đồ 2: Tác động của năng suất, chất lượng đến khả năng cạnh tranh Cạnh tranh cao hơn - Sức mạnh cạnh tranh được duy trì - Thị phần cao hơn Phần phân phối lớn hơn - Lượng cao hơn - Lợi nhuận cao hơn - Đầu tư cao hơn Đáp ứng nhu cầu khách hàng - chất lượng sản phẩm cao. Chi phí lao động đơn vị thấp Đầu ra lớn hơn Chi phí thấp hơn Tài sản Cơ sở hạ tầng – Tài chính – Công nghệ – Con người. Quá trình cạnh tranh Chất lượng – Thời gian – Thoả mãn khách hàng - Dịch vụ Sự trao đổi thông qua năng suất cao hơn Có thể thấy khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào hai yếu tố là giảm chi phí và tăng mức thoả mãn nhu cầu. Nó phải được tạo ra từ chất lượng cao hơn trong quản lý, sử dụng tối ưu các nguồn lực thông qua tăng năng suất và hiệu quả của nguồn tài sản và các quá trình. Chất lượng cao là con đường cạnh tranh cơ bản giải quyết mâu thuẫn giữa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao với giảm chi phí sản xuất. Kết quả cuối cùng của nâng cao khả năng cạnh tranh phải là sự kết hợp đồng thời, hài hoà giữa các chỉ tiêu trước mắt và chỉ tiêu dài hạn. Nó không chỉ biểu hiện thông qua việc tăng tốc độ tăng trưởng, tăng lợi nhuận mà còn là khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường đảm bảo sự phát triển dài hạn bền vững của các doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty 22 Phần 1:Giới thiệu chung về công ty 22-Bộ quốc phòng 1. Quá trình hình thành và phát triển công ty Công ty 22 có cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp là Tổng cục Hậu cần – Bộ Quốc phòng. Công ty 22 – Bộ quốc phòng là một Doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế toàn diện, có đầy đủ tư cách pháp nhân. Trụ sở chính đặt tại: Thị trấn Sài Đồng – Gia Lâm – Hà Nội Điện thoại: 04 8 750 974 Ngày 22 tháng 4 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 568/QPQĐ thành lập Công ty 22 – Tổng cục Hậu cần – Bộ Quốc phòng. Ngày 02 tháng 7 năm 1996, Công ty 22 được cấp giấy phép kinh doanh mang số hiệu 110747 có phạm vi hoạt động trong cả nước. Tiền thân của Công ty 22 là một xưởng sản xuất của tổng kho 205 thuộc Tổng cục Hậu cần. Vào dịp tết năm 1969 đồng chí Lương Nhân, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tới thăm và chúc tết cán bộ, chiến sĩ Tổng kho 205. Đồng chí đã đề cập tới chủ trương xây dựng một xí nghiệp chế biến thực phẩm để phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ chiến đấu. Sau đó không lâu ngày 22 tháng 12 năm 1970 xưởng sản xuất đã đi vào hoạt động và Tổng cục Hậu cần đã cho phép đặt tên đơn vị sản xuất mới này là “ Xí nghiệp chế biến thực phẩm 22 “. Quá trình phát triển của Công ty 22 chia làm 3 giai đoạn lớn: Giai đoạn 1: Từ năm 1970 đến năm 1975 Ngay trong ngày cắt băng khánh thành Xí nghiệp đã đi vào hoạt động và cho ra đời một số sản phẩm. Những sản phẩm đầu tiên tuy mới chỉ là các loại mì thanh, mì sợi, mì trứng, bánh ép mặn, lương khô, cơm sấy…nhưng cũng đã báo hiệu một bước tiến mới của ngành chế biến thực phẩm của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bước sang năm 1972 do yêu cầu phục vụ chiến trường Xí nghiệp phải đẩy tốc độ sản xuất một số mặt hàng trọng tâm và một số mặt hàng đột xuất khác. Ngoài ra Xí nghiệp còn phấn đấu hoàn thành những đơn đặt hàng ngoài kế hoạch để phục vụ các đơn vị, đặc biệt là các bệnh viện. Lượng hàng sản xuất năm 1974 tăng lên nhanh chóng, cuối năm 1974 Xí nghiệp đã đạt tổng giá trị sản lượng hàng hoá 155,95 % so với năm 1973. Sự trưởng thành của Xí nghiệp không chỉ tính bằng những con số mà còn thể hiện rõ trong những tiến bộ về công tác quản lý. Đây thực chất là một bước chuẩn bị rất cần thiết để Xí nghiệp bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn 2: Từ năm 1976 đến năm 1989 Bước sang năm 1976, thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, Xí nghiệp tiến hành củng cố lại biên chế tổ chức. Các phân xưởng cũng có sự sắp xếp lại cho phù hợp hơn với tình hình mới, các ban chuyên môn cũng được kiện toàn lại. Chất lượng các mặt hàng do Xí nghiệp sản xuất ngày càng được nâng cao bởi công tác quản lý đã được Cục quân lương chú ý. Đặc biệt từ năm 1985 Xí nghiệp được cấp trên giao nhiệm vụ sản xuất các xuất ăn cho bộ đội trên điểm tựa và cũng năm 1985 đó Xí nghiệp đã sản xuất và chuyển lên phía trước 57120 xuất ăn điểm tựa đạt chất lượng cao. Năm 1980 báo hiệu một sự chuyển mình của Xí nghiệp 22, Cục Quân lương và các cơ quan tham mưu cấp trên đã khích lệ động viên ủng hộ và tạo điều kiện cho Xí nghiệp mạnh dạn đổi mới tư duy kinh tế để tạo ra một tiền đề quan trọng cho giai đoạn mới – giai đoạn Xí nghiệp 22 thử thách mình trên cả hai mặt trận: hoàn thành những nhiệm vụ quốc phòng và tiến vào cơ chế thị trường với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn 3: Từ năm 1990 đến nay Bước sang năm 1990, đây là những năm tháng rất khó khăn đối với Xí nghiệp 22, hàng quốc phòng giảm trong lúc tình hình chính trị kinh tế trong nước và quốc tế có rất nhiều biến động. Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng, nguyên vật liệu khan hiếm, giá cả bất ổn định, hàng hoá làm ra rất khó tiêu thụ. Trước tình hình đó Đảng uỷ, Ban Giám đốc Xí nghiệp đã củng cố và mở rộng các mặt hàng kinh tế, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để tăng sức cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường để tiêu thụ ngày càng nhiều sản phẩm, đẩy mạnh sản xuất. Nhờ có dây truyền sản xuất mới mà bánh bích quy Hương Thảo của Xí nghiệp đã trở thành một mặt hàng có chất lượng cao, nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường với sản lượng tăng hàng năm từ 20 đến 30 %. Vào những năm 2000 thực hiện tư tưởng chỉ đạo “ liên tục đổi mới, liên tục cải tiến “ Ban Giám đốc công ty đã nghiên cứu và đưa ra thị trường những mặt hàng mới đạt chất lượng cao và hình th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100804.doc
Tài liệu liên quan