Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có đổi mới căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ những nét yếu kém trong điều hành và trong hoạt động nghiệp vụ.
Đối với mỗi ngân hàng công tác huy động nguồn vốn và sử dụng luôn là hoạt động rất quan trọng liên quan đến sự sống còn, hoạt động, phát triển của chính Ngân hàng đó. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nóng và lạm phát tăng cao. Công tác huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn. Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Láng Hạ, với mong muốn kết hợp kiến thức đã được học và thời gian thực tâp tại Ngân hang, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Trương Minh Du em chọn đề tài : " Cân đối giữa huy động nguồn vốn với sử dụng nguồn vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ và giải pháp".
Nội dung luận văn của em bao gồm:
Chương 1: Vốn kinh của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng về cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao tính cân đối giữa huy động nguồn vốn và sử dụng vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Cân đối giữa huy động nguồn vốn với sử dụng nguồn vốn tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có đổi mới căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ… Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ những nét yếu kém trong điều hành và trong hoạt động nghiệp vụ.
Đối với mỗi ngân hàng công tác huy động nguồn vốn và sử dụng luôn là hoạt động rất quan trọng liên quan đến sự sống còn, hoạt động, phát triển của chính Ngân hàng đó. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nóng và lạm phát tăng cao. Công tác huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn. Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Láng Hạ, với mong muốn kết hợp kiến thức đã được học và thời gian thực tâp tại Ngân hang, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Trương Minh Du em chọn đề tài : " Cân đối giữa huy động nguồn vốn với sử dụng nguồn vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ và giải pháp".
Nội dung luận văn của em bao gồm:
Chương 1: Vốn kinh của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng về cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao tính cân đối giữa huy động nguồn vốn và sử dụng vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.CHƯƠNG 1: VỐN KINH DOANH CỦA NHTM TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Vốn kinh doanh của NHTM.
Định nghĩa vốn kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh đòi hỏi cần phải có vốn đầu tư. Có thể nói rằng, vốn là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Vốn được biểu hiện là một khoản tiền bỏ ra nhằm mục đích kiếm lời.
Vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay của NHTW, vay các tổ chức tín dụng khác và nguồn vốn khác như nguồn vốn nhận uỷ thác, vốn được hình thành trong quá trình thanh toán của NHTM.
Kết cấu vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1 Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu của NHTM là vốn tự có cần thiết khi bắt đầu hoạt động của NHTM và được tích luỹ tăng dần trong quá trình hoạt động, nó bao gồm; Vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và các tài sản nợ khác theo quy định.
- Vốn điều lệ: là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Tùy theo các hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với NHTM Nhà nước thì vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập và được bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. NHTM cổ phần vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp vốn.
Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và quy mô hoạt động của từng ngân hàng, nhưng không được thấp hơn mức vốn pháp định mà luật pháp quy định cho từng loại hình ngân hàng.
- Các quỹ dự trữ: Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình, trong quá trình hoạt động các ngân hàng thương mại được trích lập quỹ.
Như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng.
- Các tài sản nợ khác: theo quy định của pháp luật một số tài sản nợ khác được coi như vốn chủ sở hữu của NHTM. Bao gồm: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản do Nhà nước cấp(nếu có), các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá, lợi nhuận được để lại chưa phân bổ cho các quỹ.
Ngoài ra, các NHTM còn có các quỹ khác có thể sử dụng tạm thời cho các hoạt động kinh doanh như: quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
Vốn chủ sở hữu nói chung và vốn điều lệ nói riêng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Đây là điều kiện pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của ngân hàng thương mại, là căn cứ để tính toán các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng.
1.1.2.2 Vốn huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động thông qua quá trình thực hiện của nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.Vốn huy động được hình thành từ vốn trên tài khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, vốn huy động tiết kiệm, và vốn phát hành các giấy tờ có giá.
Tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân trong và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng. Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: tiền gửi của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
- Tiền gửi của các doanh nghiệp, TCKT :
+ Số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán:
Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, người gửi có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào. Loại tiền gửi này có mục đích chính là phục vụ cho nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp không qua ngân hàng.
Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút tiền có thể thực hiện vào bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp. Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như séc, ủy nhiệm chi….
+ Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác định trước. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng được rút tiền trước khi đến hạn nhưng chỉ được hưởng lãi thấp hoặc theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh. Vì vậy để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có các loại kỳ hạn: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng…Với mỗi kỳ hạn Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn định, Ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh.
- Tiền gửi của dân cư.
Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền gửi của dân cư tại Ngân hàng. Tiền gửi của dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi tài khoản cá nhân.
+ Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi suất theo quy định. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Khách hàng được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm.
Có 2 loại tiền gửi tiết kiệm là:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo quy định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn.
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng…nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn khác nhau. Thông thường kỳ hạn càng dài thì lãi suất huy động càng cao (lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
a.Tiền gửi tài khoản cá nhân:
Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào trong đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán như chi trả tiền điện, nước, internet…cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng.
Tiền gửi của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm có lãi suất bậc thang…với lãi suất hợp lý.
Phát hành giấy tờ có giá.
Ngoài hình thức huy động vốn bằng tiền gửi các Ngân hàng thương mại còn sử dụng một công cụ huy động khác đó là phát hành giấy tờ có giá. Nó thường có lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn dưới hình thức kỳ phiếu và trung hạn và dài hạn dưới hình thức trái phiếu ngân hàng.
Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành ngắn hạn (dưới 1 năm) và thường nhằm mục tiêu nhất định trong sử dụng vốn nên không huy động thường xuyên như loại tiền gửi tiết kiết kiệm của dân cư.
Trái phiếu được các NHTM hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm. Các NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp mà Ngân hàng cam kết cho vay.
Hình thức này được các Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho đến nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh của công cụ huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trường vốn hoàn chỉnh (thị trường chứng khoán). Ở nước ta thị trường này mới thành lập cho nên hoạt động của nó chưa ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của NH.
1.1.2.3 Vốn đi vay.
Trong quá trình kinh doanh của NHTM có những thời gian khách hàng có nhu cầu vay lớn nhưng nguồn vốn lại không đủ, hoặc người gửi rút tiền trước hạn trong khi đó vốn cho vay chưa đến lúc thu hồi. Khi đó các NHTM phải đi vay vốn để đảm bảo khả năng thanh toán. NHTM có thể vay vốn các NHTM khác hoặc vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương.
Vay vốn từ NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Ở bất kỳ mọi thời điểm nào cũng có những NH có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi tại tài khoản tiền gửi thanh toán của họ ở Ngân hàng Nhà Nước, khoản dự trữ này không sinh lời. Bởi vậy họ sẵn sàng cho các NH khác vay trong một thời gian ngắn. Quá trình vay và cho vay lẫn nhau giữa các NHTM trên thị trường tiền tệ được diễn ra khá phổ biến dưới nhiều hình thức, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay thường rất linh hoạt nhằm đảm bảo khả năng chi trả cho bất kỳ lúc nào của NHTM.
b. Vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương.
Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của các Ngân hàng và là Ngân hàng cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Vì vậy các NHTM có thể được Ngân hàng Trung ương cho vay vốn khi cần thiết. Ở Việt Nam hiện nay Ngân hàng Nhà nước cho NHTM vay vốn ngắn hạn dưới hình thức sau:
- Tái cấp vốn, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương còn cho NHTM vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng chính phủ chấp nhận, Ngân hàng Nhà nước còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn trong hệ thống.
Vốn vay của các NHTM khác và vay của Ngân hàng Trung ương thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của NHTM, cho nên ngoài tác dụng góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của NH, nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của NHTM.
1.1.2.4 Nguồn vốn khác.
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác như: liên doanh liên kết đầu tư, hợp doanh….
- Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là nguồn vốn mà Ngân hàng có được do làm ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình dự án. Trong thời gian vốn đã được NH tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, NH có được một số vốn để kinh doanh. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng sẽ được hưởng một khoản thu nhập dưới hình thức phí hoặc hoa hồng.
Ngoài ra Ngân hàng làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, cũng như thu hộ lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng…những nghiệp vụ này cũng tạo thêm được nguồn vốn cho NH.
Các nguồn vốn khác của Ngân hàng có thể không nhiều, thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn, nhưng điều đáng quan tâm là nguồn vốn này Ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động, nhưng lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
- Vốn trong thanh toán: Thông qua hoạt động thanh toán, NHTM có thể tạo cho mình những khoản vốn mà ngân hàng có thể sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình. Những nguồn vốn này phát sinh từ các sản phẩm dịch vụ thanh toán thanh toán như tiền ký quỹ trong nghiệp vụ bảo lãnh, ký quỹ để đảm bảo thanh toán Séc, ký quỹ bảo đảm thanh toán thư tín dụng, các khoản chuyển tiền phải trả hình thành do người chuyển tiền đã nộp vào Ngân hàng nhưng người thụ hưởng chưa lĩnh tiền…Nguồn vốn này càng lớn khi nghiệp vụ thanh toán và các dịch vụ khác của Ngân hàng được mở rộng.
1.2 Hoạt động sử dụng vốn của NHTM
1.2.1 Cho vay đối với khách hàng
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu nhất, mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho NHTM nhưng đây cũng là lĩnh vực nhiều rủi ro nhất. Hoạt động cho vay của NHTM gồm các loại cho vay sau:
- Căn cứ vào thời hạn cho vay chia thành: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và dài hạn.
- Căn cứ vào sự đảm bảo trong cho vay chia thành: Tín dụng có bảo đảm và tín dụng không bảo đảm( tín chấp).
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh chia thành: Tín dụng với các doanh nghiệp công nghiệp, tín dụng doanh nghiệp thương mại, tín dụng doanh nghiệp dịch vụ.
- Căn cứ vào hình thái tín dụng có tín dụng bằng tiền và tín dụng bằng tài sản.
- Căn cứ vào phương pháp cho vay có tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp.
- Căn cứ vào phương pháp cho vay, người ta chia thành: tín dụng từng lần và tín dụng theo hạn mức số dư.
Qua công tác phân loại tài sản có và tình hình hoạt động thực tiễn của Ngân hàng ta có thể phân tích hoạt động đầu tư tín dụng ở NHTM theo tính thời hạn. Cơ cấu giữa nguồn vốn huy động ngắn – trung và dài hạn là yếu tố quan trọng quyết định đến công tác cho vay. Một NHTM có nguồn ngắn hạn dồi dào sẽ có khả năng cho vay ngắn hạn ở mức cao, cũng như thế nếu có nguồn vốn trung dài hạn tốt sẽ đáp ứng được các nhu cầu về tín dụng trung và dài hạn của khách hàng.
1.2.2 Hoạt động đầu tư
Đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Khi tập trung được một khối lượng vốn lớn trong tay, ngân hàng có thể đầu tư vào các doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần của các doanh nghiệp. Ngoài ra ngân hàng còn dễ dàng đầu tư vào một số loại chứng khoán như: trái phiếu chính phủ, các thương phiếu… vì các mục đích thanh khoản, đa dạng hoá hoạt động đầu tư nhằm nâng cao lợi nhuận.
1.3 Tính cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn với hoạt động cho vay của ngân hàng
1.3.1 Sự cần thiết phải đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Các NHTM nói chung đều hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn kinh doanh. Để đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi ngân hàng phải tự vạch ra một số chiến lược vốn đúng dắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn cho từng thời kỳ. Một yếu tố quan trọng trong chiến lược vốn là phải đảm bảo sử dụng kết hợp hài hoà các nguồn vốn có được với việc sử dụng các các nguồn vốn đó để mang lại hiệu quả cao nhất. Hoạt động này chính là cân đối vốn. Vậy thế nào là cân đối vốn?
1.3.2 Các hoạt động cân đối vốn
Cân đối vốn được thực hiện định kỳ theo nhừng khoảng thời gian ngắn hay dài phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động, môi trường kinh doanh và cơ chế điều hành của ngân hàng.
Thông thường các ngân hàng lập bảng cân đối theo tháng hoặc theo quý nhằm đánh giá tính hợp lý trong cân đối vốn của toàn hệ thống thời kỳ đó, Từ đó có hệ thống biện pháp chỉ đạo các chi nhánh. Tại các chi nhánh trực thuộc thì cân đối vốn được thực hiện theo ngày làm việc vì các chi nhánh phải tiếp xúc, đối mặt với những nghiệp vụ kinh doanh và các yếu tố cạnh tranh hàng ngày.
Bảng cân đối vốn được thực hiện dựa trên số liệu kế toán hàng ngày, từ đó lập các bảng tổng hợp, chi tiết về biến động của nguồn vốn huy động và sử dụng nguồn vốn. Căn cứ vào số liệu kế toán bảng cân đối được chia làm hai phần: Nguồn vốn và sử dụng vốn.
Nguyên tắc chung, từ yêu cầu sử dụng tài sản có để quyết định quy mô, cơ cấu tài sản nợ và định hướng phát triển của ngân hàng, tuỳ theo đặc điểm, cơ chế hoạt động của ngân hàng mà bảng cân đối được thực hiện theo các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung, cân đối vốn thường được thực hiện chủ yếu theo kỳ hạn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng, ngoài ra còn thực hiện cân đối theo loại tiền( nội tệ và ngoại tệ).
1.3.3 Cân đối theo kỳ hạn
Do mỗi loại nguồn vốn có đặc điểm riêng nên khi cho vay, đầu tư phải có sự tương ứng về kỳ hạn. Tức là nguồn vốn nào thì cho vay loại hình ấy:
- Nguồn vốn ngắn hay đáp ứng cho nhu cầu tín dụng ngắn hạn.
- Nguồn vốn trung, dài hạn đáp ứng cho nhu cầu tín dụng trung, dài hạn.
Thực hiện nguyên tắc này chính là đảm bảo an toàn cũng như đảm bảo tiền lãi cho vay, đầu tư bù đắp chi phí huy động và chi phí khác.
Để phân tích cân đối vốn theo kỳ hạn, người ta lập ra các bảng cân đối qua các thời kỳ chung cho cả nội tệ và ngoại tệ như:
- Bảng cân đối số dư nguồn vốn huy động ngắn hạn và số dư cho vay ngắn hạn.
- Bảng cân đối số dư nguồn vốn huy động trung dài hạn và số dư cho vay trung, dài hạn.
Qua bảng cân đối có thể tính được hệ số sử dụng nguồn vốn, tìm ra rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động huy động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn qua đó có thể đưa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Tuy nhiên ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, hay sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn. Song đó chỉ là giải pháp tạm thời để giải quyết sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Về lâu về dài ngân hàng cần đảm bảo sự cân đối về cơ cấu nguồn và sử dụng nguồn vốn nhằm đề phòng rủi ro có thể xảy ra.
1.3.4 Cân đối theo loại tiền
Trong các hoạt động kinh doanh, ngân hàng vừa huy động và cho vay vả bằng nội tệ và ngoại tệ(chủ yếu là USD) để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc sử dụng và huy động vốn bằng ngoại tệ có liên quan đến rủi ro về tỷ giá cho nên tiến hành cân đối theo loại tiền nhằm giúp ngân hàng loại bỏ được rủi ro này. Vì vậy, ngân hàng căn cứ nhu cầu vay ngoại tệ của khách hàng, cũng như khả năng đảm bảo vốn thanh toán của ngân hàng bằng ngoại tệ mà có quyết định về việc tăng huy động vốn bằng ngoại tệ hay không?
1.3.5 Đảm bảo khả năng thanh toán
Để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng chính là việc các ngân hàng phải giữ lại một phần dự trữ dưới hình thức các tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc và thực hiện các căm kết tài chính như là ngân hàng phải thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng và của ngân hàng như:
- Nhu cầu chi trả của ngân hàng(hay gọi là luồng ra - cầu về thanh khoản) được đo bằng sự gia tăng của tiền gửi đến hạn phải trả, các hợp đồng đã ký phải thực hiện, lãi trả cho các khoản nợ, chi phí tác nghiệp khi cung ứng các sản phẩm dịch vụ.
- Nguồn để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản( còn gọi là luồng vào, cung về thanh khoản) bao gồm các khoản gửi, tiền vay huy động được, tín dụng đến hạn hoàn trả, lãi tín dụng chứng khoán có thể bán, các khoản vay mượn có thể nhận được, hoặc có thể bán, thu nhập bán các dịch vụ.
Nếu luồng vào nhỏ hơn luồng ra thì ngân hàng đang trong tình trạng thâm hụt thanh khoản, hay không đả bảo khả năng thanh toán.
Nếu luồng vào lớn hơn luồng ra có nghĩa là ngân hàng đang ở trong tình trạng thặng dư thanh khoản.
Như vậy các ngân hàng luôn phải đối mặt và giải quyết một trong hai tình trạng thanh khoản thặng dư hay là thâm hụt.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ
2. 1 TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
- Chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ thành lập theo quyết định số 334/QĐ ngày 02/08/1996 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ chính thức khai trương hoạt động từ 17/03/1997. Hiện có trụ sở tại 24 Láng Hạ, nơi tập trung nhiều doanh nghiệp lớn như: VINACONEX, Tổng Công ty Thép, Công ty FPT…
Tên giao dịch: Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn Láng Hạ
Tên viết tắt: NHNo&PTNT Láng Hạ
Tên giao dịch quốc tế: The Branch for Agricuture and Rural Development
Bank of Lang Ha
- Theo Quyết định 334/QĐ NHNN-02 ngày 2/8/1996 về việc thành lập chi nhánh ngân hàng 44 Láng Hạ (24 Láng Hạ hiện nay), Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ là chi nhánh trực thuộc trung tâm điều hành, đại diện pháp nhân, có con dấu, có bảng cân đối tài khoản, hạch toán kinh tế nội bộ. Chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHNo & PTNT Việt Nam, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với NHNo & PTNT Việt Nam. NHNo & PTNT Việt Nam chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ cho sự cam kết của chi nhánh trong phạm vi được ủy quyền.
- Chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ được ký kết các hợp đồng kinh tế dân sự, được chủ động thực hiện hoạt động kinh doanh, tổ chức nhân sự theo sự phân cấp ủy quyền của NHNo & PTNT Việt Nam.
- Trong 10 năm hoạt động, Chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ đã không ngừng phát triển về mọi mặt. Năm 1997, Chi nhánh ban đầu thành lập với 13 cán bộ đến nay đã phát triển lên 216 cán bộ, với 11 phòng chức năng, 2 chi nhánh cấp 2 và 8 phòng giao dịch.
2.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng hạ
2.2.1 Ban giám đốc:
- Giám đốc phụ trách chung và trực tiếp phụ trách công tác nhân sự, kiểm toán nội bộ.
- Ba phó giám đốc:
+ Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
+ Một phó giám đốc phụ trách công tác Kế toán - Ngân quỹ, Điện toán.
+ Một phó giám đốc phụ trách Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, dịch vụ và Marketing.
2.2.2 Nhiệm vụ của các phòng ban.
*Phòng hành chính – nhân sự: có nhiệm vụ theo dõi nhân sự, tiếp nhận và tổ chức đào tạo cán bộ, làm công tác văn phòng, hành chính văn thư lưu trữ và phục vụ hậu cần.
* Phòng nguồn vốn kế hoạch tổng hợp : Xây dựng và thông báo chỉ tiêu kinh doanh hàng quý, năm và hạn mức tín dụng của các doanh nghiệp cho các phòng nghiệp vụ. Thay đổi điều chỉnh lãi suất tiền vay, tiền gửi đã được giám đốc phê duyệt.
* Phòng thanh toán quốc tế: Thực hiện thanh toán quốc tế, mở và thanh toán L/C…thông báo tỷ giá, mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng.
* Phòng marketing: Thực hiện các dịch vụ tiếp thị khách hàng, nghiên cứu, phân tích các dịch vụ của Ngân hàng.
*Phòng kế toán – ngân quỹ: trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán, thu, chi tiền mặt theo quy định của Ngân hàng nhà nước và NHN0&PTNT Việt Nam. Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, quỹ tiền lương…Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu và hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo khác theo quy định. Thực hiện nghiệp vụ thanh toán theo quy định, thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định.
* Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ: Đề xuất, xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra kiểm soát định kỳ ( theo quý, năm ). Tổng hợp báo cáo kết quả các đợt kiểm tra, kiểm toán, xác minh, tham mưu cho lãnh đạo giải quyết các đơn thư khiếu nại…Bảo mật hồ sơ, tài liệu, thông tin liên quan đến công tác kiểm tra, thanh tra theo quy định, kiểm định các văn bản do Chi nhánh phát hành.
* Phòng tín dụng: Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền. thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc phục. Chịu trách nhiệm Marketing tín dụng bao gồm thiết lập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3692.doc.doc