Như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận, một trong những nguyên nhân
chính gây ra rủi ro tín dụng chính là đạo đức cán bộ (riêng SCB 20% nợ xấu là
do nguyên nhân này). Đây là một loại rủi ro rất khó đolường, khó kiểm soát mà
hậu quả thì rất nặng nề. Nhìn lại lịch sử hoạt động của ngành ngân hàng, tuy có
nhiều rủi ro gây thiệt hại cho hoạt động của ngân hàng nhưng rủi ro đạo đức cán
bộ mới chính là rủi ro gây ra các vụ án thật sự nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
nặng nề đến hệ thống ngân hàng và thị trường tàichính tiền tệ quốc gia. Một
trong những vụ án điển hình đối với ngành ngân hàng do đạo đức cán bộ đó là
Tamexco và Epco – Minh Phụng.
Theo tôi, một trong những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro đạo đức cán bộ đó
là tách công tác thẩm định độclập với công tác cho vay và quản lý tín dụng. Bởi
vì, khi cán bộ tín dụng vừa thẩm định, vừa trình cho vay và quản lý luôn khoản
vay thì sẽ có điều kiện thuậnlợi phối hợp với khách hàng vay để rút tiền ngân
hàng. Khi tách chức năng thẩm định ra khỏi chức năng cho vay và quản lý tín
dụng thì các bộ phận này sẽ kiểm soát lẫn nhau và sẽ hạn chế được rủi ro.
Đối với SCB, tôi đề xuất mô hình tổ chức này như sau:
Tại Hội sở chính: Phòng tín dụng và đầu tư trực tiếp nên tách thành 02
phòng
- Phòng thẩm định: chức năng chính củaPhòng này là tái thẩm định các
khoản vay vượt mức ủy quyền phán quyết của Sở Giao Dịch và các chi nhánh.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang56
- Phòng quản lý tín dụng:chức năng chính của Phòng này là quản lý hoạt
động tín dụng chung của toàn ngân hàng; xây dựng quy trình, quy chế cho hoạt
động tín dụng; xây dựng chính sách, định hướng tín dụng.
Tại Sở Giao dịch và các chi nhánh: tách phòng tín dụng thành 02 phòng
- Phòng thẩm định: chức năng chính là phân tích, thẩm định hồ sơ vay vốn
của khách hàng tại chi nhánh (kể cả các khách hàng của các phòng giao dịch
trực thuộc).
- Phòng tín dụng: dựa vào kết quả thẩm định của phòng thẩm định, Phòng
tín dụng sẽ đề xuất tín dụng và quản lý, theo dõi các dự án đã cho vay.
Tuy nhiên, do xuất phát từ một Ngân hàng nhỏ, quy mô hoạt động của một
số chi nhánh chưa lớn nên đối với một số chi nhánh cùng địa bàn hoạt động có
thể chọn ra một chi nhánh có quy mô hoạt động lớn nhất tách phòng tín dụng ra
hai phòng như đề xuất trên. Phòng thẩm định của chi nhánh này làm chức năng
thẩm định chung cho tất cả các chi nhánh trên cùng một địa bàn.
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro trong cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay ngân hàng. Ngược lại, nếu nhà đầu tư được các ngân
hàng khác tài trợ vốn lưu động thì nhà đầu tư sẽ phải chuyển doanh thu của dự
án về ngân hàng khác. Khi đó, SCB không thể quản được nguồn thu của dự án
và không theo dõi được sát hoạt động của dự án. Đây cũng là cơ sở gây ra rủi ro
cho hoạt động tín dụng của SCB.
Quy trình cho vay dự án đầu tư chỉ là quy trình chung chưa có quy trình
cụ thể áp dụng cho từng ngành nghề, từng lĩnh vực đầu tư.
Từng ngành nghề, từng lĩnh vực đầu tư đều có những nét đặc thù riêng. Vì
thế mức độ rủi ro và các dấu hiệu rủi ro của từng ngành nghề, từng lĩnh vực kinh
doanh cũng khác nhau. Nếu áp dụng quy trình chung thì không thể phát hiện và
đo lường các rủi ro đặc thù. Hiện tại, SCB chỉ có quy trình cho vay dự án đầu tư
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 52
chung cho tất cả các ngành nghề mà chưa có hướng dẫn chi tiết cho các ngành
nghề, đặc biệt là đối với các ngành nghề chiếm tỷ lệ dư nợ cao trong tổng dư nợ.
Đây là một hạn chế của SCB trong việc quản trị rủi ro tín dụng.
Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung nhằm phục vụ cho
công tác thẩm định.
Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về các ngành kinh tế có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với công tác thẩm định dự án. Nó giúp cho việc thẩm định được
nhanh chóng và chính xác hơn. Việc nhận dạng và đo lường rủi ro sẽ đầy đủ hơn.
Mặt khác, trong quá trình cập nhật dữ liệu hệ thống cũng sẽ cảnh báo trước các
dấu hiệu rủi ro đối với các ngành nghề để ngân hàng chủ động có giải pháp ứng
phó kịp thời và phù hợp. Hiện tại, khi thẩm định cho vay, từng cán bộ tín dụng
phải tự tìm thông tin để thẩm định. Những thông tin thu thập được rất chậm,
không đầy đủ và mức độ tin cậy không cao. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm giảm chất lượng cho vay dự án đầu tư của SCB.
Cán bộ tín dụng của SCB đa số là các sinh viên mới ra trường chưa có
kinh nghiệm trong công tác thẩm định và quản lý dự án.
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành
công của công tác quản trị. Cho dù SCB xây dựng được cho mình một mô hình
quản trị rủi ro thật lý tưởng nhưng nhân sự không đáp ứng yêu cầu thì công tác
quản trị rủi ro cũng sẽ thất bại. Hiện tại, tuy bộ khung trong công tác quản trị rủi
ro tín dụng của SCB là những người có năng lực và kinh nghiệm được mời từ các
ngân hàng lớn về nhưng 95% cán bộ tín dụng là những sinh viên mới ra trường
chưa có kinh nghiệm trong công tác thực tế. Đây là một hạn chế mà hiện tại
SCB buộc phải chấp nhận vì SCB mới chỉ củng cố và ổn định hoạt động trong 03
năm nay. Mặt khác, thị trường nguồn nhân lực có kinh nghiệm trong hoạt động
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 53
tín dụng hiện tại chưa đủ dồi dào để SCB có thể chủ động trong công tác tuyển
dụng.
Cán bộ tín dụng của ngân hàng không biết nhiều kiến thức chuyên môn
về các ngành đầu tư mà ngân hàng cho vay.
Khi thẩm định dự án đầu tư để ra quyết định cho vay nếu cán bộ tín dụng
không có kiến thức chuyên môn về ngành nghề đầu tư của dự án thì không thể
nhận ra sự bất hợp lý của dự án cũng như các vấn đề cần tập trung. Vì thế, quyết
định cho vay đầu tư dự án dựa trên các cơ sở không chuẩn xác, khả năng rủi ro
xảy ra cho dự án rất cao. Hơn nữa, sau khi cho vay ngân hàng cũng không thể
kiểm soát được hoạt động thực tế của dự án. Đây không những là hạn chế của
SCB mà còn là thực trạng chung của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chính
vì không nắm rõ về chuyên môn, kỹ thuật của ngành nghề đầu tư nên chất lượng
công tác thẩm định không cao và cũng không lường hết được các rủi ro có thể
xảy ra.
Công tác kiểm tra, giám sát vốn vay và dự án đầu tư của cán bộ tín dụng
còn mang tính hình thức nên chưa phát huy hiệu quả của nó.
Nội dung chính của công tác quản trị rủi ro là tìm ra những nguyên nhân gây
ra rủi ro, các dấu hiệu dẫn đến rủi ro để có giải pháp hạn chế, ngăn ngừa chứ
không phải để xảy ra rủi ro rồi tìm giải pháp xử lý. Vì thế, công tác kiểm tra,
giám sát hoạt động của dự án đầu tư được ngân hàng cho vay là rất quan trọng
trong việc phát hiện kịp thời các dấu hiệu dẫn đến rủi ro. Hiện tại, SCB có quy
trình và hướng dẫn chi tiết cho công tác kiểm tra, giám sát dự án cho vay nhưng
việc triển khai thực hiện chưa đạt hiệu quả. Đa phần cán bộ tín dụng chưa nhận
thức được tầm quan trọng của công tác này và thiếu trách nhiệm trong việc thực
hiện. Điều này là một rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động tín dụng của SCB.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 54
Chương trình quản lý tín dụng hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu quản
trị trong cho vay dự án đầu tư của SCB.
Như chúng ta biết hầu hết hoạt động quản trị kinh doanh của các doanh đều
được hỗ trợ rất lớn bởi các phần mềm quản lý. Bởi vì những dữ liệu được cập
nhật vào chương trình sẽ được chương trình xử lý chính xác và cung cấp kịp thời.
Đối với ngân hàng cũng vậy, không những trong hoạt động cho vay dự án đầu tư
mà còn cả hoạt động tín dụng nói chung đều rất cần có một phần mềm hiệu quả
để quản lý. Phần mềm càng phù hợp, càng đáp ứng được yêu cầu quản lý thì
công tác quản trị sẽ phát huy được hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, phần mềm quản
lý tín dụng hiện tại của SCB chưa đáp ứng được điều này. Rất nhiều thông tin
cần phục vụ cho công tác quản trị nhưng chương trình chưa lưu trữ được. Khi cần
thiết, chương trình không cung cấp được thông tin để nhà lãnh đạo ra quyết định.
Hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản trị rủi ro trong hoạt động tín
dụng nói chung và hoạt động cho vay dự án đầu tư nói riêng của SCB.
SCB chưa chú trọng đến công tác quản lý tín dụng theo danh mục
Quản trị rủi ro bằng phương pháp quản trị danh mục là một nội dung khá phổ
biến trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
Phương pháp quản trị này giúp cho các ngân hàng tránh được tình trạng tập trung
tín dụng. Đây là một tình trạng tìm ẩn rủi ro rất lớn vượt qua ngoài tầm kiểm
soát của các ngân hàng. Hiện tại, SCB chưa chính thức triển khai quản trị tín
dụng theo phương pháp này. Kết quả là nguy cơ xảy ra tình trạng tập trung tín
dụng của SCB rất cao (theo bảng số liệu 5). Đây là một thiếu sót trong công tác
quản trị rủi ro tín dụng tại SCB.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 55
3.2 Các giải pháp
3.2.1 Giải pháp về tổ chức hoạt động
3.2.1.1 Tách công tác thẩm định độc lập với công tác cho vay và quản lý tín
dụng
Như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận, một trong những nguyên nhân
chính gây ra rủi ro tín dụng chính là đạo đức cán bộ (riêng SCB 20% nợ xấu là
do nguyên nhân này). Đây là một loại rủi ro rất khó đo lường, khó kiểm soát mà
hậu quả thì rất nặng nề. Nhìn lại lịch sử hoạt động của ngành ngân hàng, tuy có
nhiều rủi ro gây thiệt hại cho hoạt động của ngân hàng nhưng rủi ro đạo đức cán
bộ mới chính là rủi ro gây ra các vụ án thật sự nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
nặng nề đến hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính tiền tệ quốc gia. Một
trong những vụ án điển hình đối với ngành ngân hàng do đạo đức cán bộ đó là
Tamexco và Epco – Minh Phụng.
Theo tôi, một trong những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro đạo đức cán bộ đó
là tách công tác thẩm định độc lập với công tác cho vay và quản lý tín dụng. Bởi
vì, khi cán bộ tín dụng vừa thẩm định, vừa trình cho vay và quản lý luôn khoản
vay thì sẽ có điều kiện thuận lợi phối hợp với khách hàng vay để rút tiền ngân
hàng. Khi tách chức năng thẩm định ra khỏi chức năng cho vay và quản lý tín
dụng thì các bộ phận này sẽ kiểm soát lẫn nhau và sẽ hạn chế được rủi ro.
Đối với SCB, tôi đề xuất mô hình tổ chức này như sau:
Tại Hội sở chính: Phòng tín dụng và đầu tư trực tiếp nên tách thành 02
phòng
- Phòng thẩm định: chức năng chính của Phòng này là tái thẩm định các
khoản vay vượt mức ủy quyền phán quyết của Sở Giao Dịch và các chi nhánh.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 56
- Phòng quản lý tín dụng: chức năng chính của Phòng này là quản lý hoạt
động tín dụng chung của toàn ngân hàng; xây dựng quy trình, quy chế cho hoạt
động tín dụng; xây dựng chính sách, định hướng tín dụng.
Tại Sở Giao dịch và các chi nhánh: tách phòng tín dụng thành 02 phòng
- Phòng thẩm định: chức năng chính là phân tích, thẩm định hồ sơ vay vốn
của khách hàng tại chi nhánh (kể cả các khách hàng của các phòng giao dịch
trực thuộc).
- Phòng tín dụng: dựa vào kết quả thẩm định của phòng thẩm định, Phòng
tín dụng sẽ đề xuất tín dụng và quản lý, theo dõi các dự án đã cho vay.
Tuy nhiên, do xuất phát từ một Ngân hàng nhỏ, quy mô hoạt động của một
số chi nhánh chưa lớn nên đối với một số chi nhánh cùng địa bàn hoạt động có
thể chọn ra một chi nhánh có quy mô hoạt động lớn nhất tách phòng tín dụng ra
hai phòng như đề xuất trên. Phòng thẩm định của chi nhánh này làm chức năng
thẩm định chung cho tất cả các chi nhánh trên cùng một địa bàn.
3.2.1.2 Thay đổi lại quy định về mức ủy quyền phán quyết cho vay
Có một nội dung trong quy định ủy quyền phán quyết tín dụng của SCB chưa
hợp lý là mọi khách hàng mới khi đặt quan hệ tín dụng với SCB đều phải do
Tổng Giám đốc quyết định. Hồ sơ trước khi được Tổng Giám đốc duyệt đều phải
được Phòng tín dụng và Đầu tư trực tiếp của Hội sở tái thẩm định. Theo tôi, về
lâu dài quy định này bộc lộ nhiều nhược điểm và sẽ gây ra rủi ro cho hoạt động
tín dụng.
Do SCB đang trong quá trình củng cố phát triển nên công tác tiếp thị khách hàng
mới rất được chú trọng. Mỗi tuần, Phòng tín dụng và Đầu tư trực tiếp phải thẩm
định trên 15 hồ sơ khách hàng mới do các chi nhánh chuyển về (Trong đó:
khoảng 05 hồ sơ có số tiền đề nghị vay trên 10 tỷ đồng, 10 hồ sơ có số tiền đề
nghị vay từ 10 tỷ đồng trở xuống). Nhân viên của Phòng tín dụng và Đầu tư trực
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 57
tiếp chỉ có 5 người. Như vậy, ngoài việc thực hiện một số công tác khác, bình
quân mỗi nhân viên phải tái thẩm định ít nhất 03 hồ sơ tín dụng mỗi tuần. Vì thế,
công tác tái thẩm định hồ sơ tín dụng của Phòng Tín dụng và Đầu tư trực tiếp chỉ
dừng ở mức kiểm tra các điều kiện và nguyên tắc cho vay mà không có đủ thời
gian để thực hiện công tác tái thẩm định đúng nghĩa. Trong thời gian qua hầu
như Phòng tín dụng và Đầu tư trực tiếp chưa có điều kiện đi thực tế để thẩm định
bất cứ hồ sơ tín dụng nào. Chính vì thế hiệu quả công tác tái thẩm định không
cao, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng rất lớn. Thời gian vừa qua. đa số các dự án
đầu tư đều thông qua Phòng Tín dụng và Đầu tư trực tiếp tái thẩm định nhưng do
không có nhiều thời gian và không tiếp cận được thực tế dự án nên đã không
phát hiện được các hạn chế của dự án. Kết quả là nợ xấu phát sinh và ngày càng
tăng.
Theo tôi, để khắc phục tình trạng này SCB cần phân quyền phán quyết tín
dụng đối với khách hàng mới cho các chi nhánh như sau:
- Đối với các chi nhánh do Phó Tổng Giám đốc phụ trách: được quyền
quyết định tín dụng đối với hồ sơ của các khách hàng mới từ 10 tỷ đồng trở
xuống.
- Đối với các chi nhánh không do Phó Tổng Giám đốc phụ trách: được
quyền quyết định tín dụng đối với hồ sơ của các khách hàng mới từ 7 tỷ đồng trở
xuống.
Khi đó, mỗi tuần Phòng Tín dụng và Đầu tư trực tiếp chỉ thẩm định khoảng 5
hồ sơ của khách hàng mới nên sẽ có đủ thời gian thẩm định kỹ hồ sơ vay, dự
đoán được các rủi ro có thể xảy ra đối với dự án cho vay.
3.2.1.3 Thành lập Ban quản lý tài sản nợ và tài sản có
Hiện nay, trong mô hình tổ chức hoạt động của SCB không có Ban quản lý
tài sản nợ và tài sản có. Theo tôi, để nâng cao hiệu quả của công tác quản trị rủi
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 58
ro trong hoạt động của ngân hàng nói chung và rủi ro trong hoạt động cho vay dự
án đầu tư nói riêng, SCB cần thiết phải thành lập Ban quản lý tài sản nợ và tài
sản có. Cụ thể như sau:
- Cơ cấu tổ chức: Ban quản lý tài sản nợ và tài sản có trực thuộc Tổng
Giám đốc
- Nhân sự của Ban: bao gồm những người có khả năng phân tích, tổng hợp,
am hiểu về công tác quản trị rủi ro ngân hàng.
- Chức năng, nhiệm vụ của Ban:
y Phân tích các biến động của tài sản nợ, tài sản có để tìm ra các giới
hạn và dấu hiệu rủi ro; đặc biệt là rủi ro trong công tác tín dụng.
y Đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro
y Dự báo các rủi ro có khả năng xảy ra đối với tài sản của ngân hàng
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 59
Sơ đồ các bộ phận liên quan hoạt động tín dụng sau khi điều chỉnh
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
P. TĐ HS
P. KT KSNB P. THPC
TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT
SGD, CN
HĐTD HỘI SỞ
PHÒNG TD
P. TV&TTKH
BAN QL TSN_TSC
PHÒNG TĐ
P. QLTD
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 60
3.2.2 Giải pháp về công tác nhân sự
3.2.2.1 Kế hoạch đào tạo cán bộ
Theo tôi, để xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên nghiệp ngoài
việc chú trọng đến công tác tuyển dụng cán bộ SCB còn phải có một kế hoạch
đào tạo thích hợp.
Do hoạt động tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với hầu hết các nghiệp vụ
khác của ngân hàng nên cán bộ tín dụng cần phải có một kiến thức tổng quát về
kế toán, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, tiếp thị,... Vì thế, khi cán bộ tín
dụng mới tuyển dụng không nên cho làm công tác thực tế ngay mà phải có một
khoảng thời gian (ít nhất là 03 tháng) học tất cả các nghiệp vụ của ngân hàng và
luân chuyển cho cán bộ tín dụng thực tập tại các phòng nghiệp vụ của ngân
hàng.
Khi cán bộ tín dụng làm công tác thực tế, cần có các lớp bồi dưỡng kiến thức
về phân tích tài chính và thẩm định dự án. Ngoài ra, SCB cần thiết đào tạo cho
cán bộ tín dụng kiến thức chuyên ngành về một số ngành chiếm tỷ lệ dư nợ cao
như: kinh doanh bất động sản, nhà hàng, khách sạn.
SCB cần thiết phải liên kết với các tổ chức, trung tâm đào tạo các nghiệp vụ
chuyên ngành ngân hàng như trường Đại học Ngân hàng, BTC (Bank training
Center),.. để các trung tâm này tìm hiểu các lỗ hỏng trong kiến thức của cán bộ
tín dụng, sau đó thiết kế các lớp đào tạo cho phù hợp.
3.2.2.2 Thực hiện việc luân chuyển cán bộ
Theo tôi, luân chuyển cán bộ cũng là một trong những giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro đạo đức cán bộ. Để thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, SCB cần
đáp ứng được yêu cầu sau:
- Cán bộ làm công tác tín dụng phải có tính chuyên nghiệp cao, thích ứng
nhanh môi trường công tác mới.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 61
- Hoạt động tín dụng cũng phải mang tính chuyên nghiệp, hồ sơ tín dụng
phải được lưu giữ đầy đủ và khoa học.
Thời hạn luân chuyển cán bộ: 06 tháng 01 lần. Việc luân chuyển cán bộ
trong công tác tín dụng, tập trung chủ yếu vào hai đối tượng sau:
- Cán bộ tín dụng: đây là cán bộ trực tiếp đề xuất cho vay và quản lý các
khoản vay. Nếu một cán bộ quản lý một khách hàng trong thời gian dài sẽ dễ
dẫn đến tình trạng thông đồng với khách hàng làm lệch lạc các tiêu chuẩn tín
dụng.
- Cán bộ kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh: nếu các cán bộ này
làm việc tại một chi nhánh trong thời gian dài thì tính độc lập và khách quan
trong công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng sẽ giảm dần.
3.2.2.3 Tổ chức các buổi tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề về công
tác cho vay dự án đầu tư
Các buổi tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề về công tác tín dụng
chính là cơ hội tốt cho những người làm công tác tín dụng chia sẽ với nhau những
kinh nghiệm thực tế. Đồng thời cũng là cơ hội để những người làm công tác tín
dụng được giải đáp mọi khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác tín dụng.
Đặc biệt, đối với các cán bộ tín dụng mới ra trường có điều kiện hiểu rõ hơn về
công tác tín dụng thực tế. Vì thế, họ sẽ nhanh chóng thích ứng với hoạt động tín
dụng chung.
Theo tôi, định kỳ ít nhất mỗi tháng 01 lần, SCB nên tổ chức một buổi nói
chuyện chuyên đề về công tác tín dụng. Phòng tín dụng và Đầu tư trực tiếp của
Hội sở chịu trách nhiệm phụ trách việc này. Trước mỗi buổi trao đổi, Phòng tín
dụng và Đầu tư trực tiếp sẽ đưa ra chuyên đề cần trao đổi để các thành viên
tham gia chuẩn bị nội dung.
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 62
Mặt khác, khi Ngân hàng Nhà nước hoặc SCB có văn bản mới về công tác
tín dụng, Phòng Tín dụng và Đầu tư trực tiếp cần chủ động đưa ra kế hoạch tập
huấn cho toàn hàng để thống nhất cách hiểu và cách làm.
3.2.2.4 Chế độ thưởng phạt đối với cán bộ tín dụng
Chế độ thưởng phạt phù hợp và rõ ràng trong công tác tín dụng sẽ làm hạn
chế các sai sót trong tác nghiệp, giúp cán bộ tín dụng có trách nhiệm hơn trong
nhiệm vụ của mình. Chế độ này có thể được cụ thể hóa như sau:
- Trả lương cao cho những người làm công tác tín dụng. Trước hết sẽ giúp
cho nhân viên ổn định được cuộc sống, yên tâm tập trung vào công tác của mình
và vì thế sẽ giảm các sai sót trong tác nghiệp.
- Nghiêm khắc xử lý các sai phạm bằng các hình thức kỹ luật, kể cả buộc
thôi việc và truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này sẽ làm cho nhân viên phải
cân nhắc đối với mọi hành động của mình. Vì thế, sẽ làm giảm thiểu các rủi ro
tín dụng do nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ tín dụng.
- Giao kế hoạch và chỉ tiêu chất lượng tín dụng cụ thể cho từng cán bộ tín
dụng (bao gồm dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, xử lý các khoản nợ xấu,...). Khi cán bộ
tín dụng đạt kế hoạch thì có mức thưởng xứng đáng, khi không đạt kế hoạch và
làm giảm thấp chất lượng tín dụng thì phải phân tích nguyên nhân và có biện
pháp xử lý nghiêm khắc. Điều này sẽ nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng
và nâng cao được chất lượng tín dụng.
3.2.3 Giải pháp về kỹ thuật nghiệp vụ
3.2.3.1 Điều chỉnh cơ cấu cho vay dự án đầu tư và thực thi chính sách tín
dụng của Hội đồng quản trị
Theo nội dung trình bày trong phần các hạn chế trong công tác quản trị rủi ro
tín dụng, chính sách tín dụng là một trong những giải pháp giúp họat động tín
dụng phát triển đúng hướng nhằm hạn chế rủi tín dụng. SCB tuy có xây dựng
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 63
chính sách tín dụng nhưng thực tế họat động không đúng theo chính sách tín
dụng. Vì thế, chính sách tín dụng của SCB chưa phát huy được tác dụng. Để thực
thi chính sách tín dụng và điều chỉnh lại cơ cấu dư nợ theo hướng giảm thiểu rủi
ro cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Đẩy mạnh các họat động, các dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu
như: thiết lập thêm các đại lý của SCB tại nước ngoài; xin gia nhập hệ thống
SWIFT để thực hiện việc thanh toán xuất nhập khẩu trực tiếp mà không phải
thực hiện qua Vietcombank và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển như hiện nay;
đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Chấp nhận lợi nhuận thấp, giảm lãi suất cho vay đối với các đối tượng vay
vốn thuộc định hướng phát triển tín dụng của SCB. Mức lãi suất cho vay phải
bằng hoặc cao hơn không quá 0,05%/tháng so với mức lãi suất bình quân của các
ngân hàng quốc doanh trên địa bàn.
- Tăng lãi suất cho vay đối với các ngành có khả năng xảy ra tình trạng tập
trung tín dụng như: kinh doanh bất động sản, kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
Lãi suất tối thiểu áp dụng đối với các ngành nghề này phải cao hơn 0,15%/tháng
so với các ngành thuộc định hướng phát triển tín dụng của SCB.
- Một trong những giải pháp vừa hạn chế tình trạng tập trung tín dụng vừa
đảm bảo an toàn cho việc thu hồi nợ vay khi cho vay dự án đầu tư chính là nâng
cao tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án của chủ đầu tư. Thông thường khi cho vay
một dự án, SCB yêu cầu khách hàng vay phải có vốn tự có tham gia tối thiểu
15% tổng giá trị đầu tư. Theo tôi, SCB cần giữ nguyên tỷ lệ này đối với các dự
án thuộc các ngành SCB khuyến khích đầu tư và nâng tỷ lệ này lên 40% đối với
các ngành cần hạn chế đầu tư thêm như kinh doanh bất động sản, kinh doanh
nhà hàng, khách sạn.
3.2.3.2 Xây dựng cẩm nang quản trị rủi ro tín dụng
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 64
Cẩm nang về quản trị rủi ro là một tài liệu không thể thiếu đối với công tác
quản trị rủi ro của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào; đặc biệt là hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện tại SCB vẫn chưa xây dựng cho mình cẩm
nang quản trị rủi ro. Theo tôi, SCB cần thiết phải xây dựng cho mình một cẩm
nang quản trị rủi ro tín dụng, cụ thể như sau:
¾ Cách thức xây dựng và sử dụng
Cẩm nang tín dụng phải được quản lý bằng một phần mềm tin học và được
những người làm công tác tín dụng khai thác trực tuyến thông qua mạng thông
tin nội bộ. Cẩm nang này không phải là một dữ liệu chết mà nó luôn được sửa
đổi, cập nhật bởi một bộ phận có trách nhiệm.
¾ Các nội dung của cẩm nang quản trị rủi ro tín dụng
Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng:
- Ngân hàng phải xác định được mức độ rủi ro mà ngân hàng chấp nhận
được có cân đối giữa lợi nhuận và mức độ rủi ro.
- Ngân hàng phải quản lý được những “rủi ro cho phép” mà không phụ
thuộc vào hoàn cảnh khách quan và chủ quan của nó.
- Trong các “rủi ro cho phép”, ngân hàng phải đảm bảo rằng chúng độc lập
tương đối với nhau.
- SCB chỉ nên chấp nhận các rủi ro mà thiệt hại khi chúng xảy ra không
được cao quá mức thu nhập phù hợp.
- Giá trị thiệt hại từ những khoản rủi ro phải phù hợp với phần vốn mà ngân
hàng trích dự phòng.
- Chi phí mà ngân hàng bỏ ra để điều tiết những tác động tiêu cực của rủi
ro khi xảy ra phải thấp hơn giá trị thiệt hại do rủi ro gây ra.
- Khi cho vay dự án đầu tư có thời gian càng dài thì ngân hàng phải đảm
bảo có mức độ thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục
Luận văn tốt nghiệp HV: Phạm Văn Phi
Trang 65
đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro trong trường hợp
chúng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 45570.pdf