Để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các ngân hàng thương mại
phải có một công nghệ thanh toán hiện đại, an toàn và nhanh chóng. Để có được
điều này, đòi hỏi vốn đầu tưkhá lớn và cần có sự đầutư đồng bộ mà không phải
ngân hàng nào cũng dễ dàng thực hiện. Chính sự đầu tư không đồng bộ dễ dẫn đến
việc thanh toán thẻ không được đảm bảo an toàn và chính xác. Đã có một số
trường hợp xảy ra đối với một vài ngân hàng thương mại mà dịch vụ thẻ vừa mới
được quan tâm là đôi khi một số khách hàng đã rút mộtsố tiền mặt nhất định trên
tài khoản bằng thẻ ATM nhưng trên tài khoản vẫn chưa bị trừ số tiền đó (chưa bị
ghi nợ số tiền tương ứng đó). Thường trường hợp này là do phần mềm xử lý ATM
chưa đồng bộ với phầnmềm xử lý tài khoản tại kế toán quầy dẫn đến tình trạng
nếu khách hàng sau khi rút tiền tại máy ATM sẽ tiếp tục rút tiền tại quầy giao dịch
sẽ ảnh hưởng không tốt đến uy tín và hoạt động ngân hàng. Đâychỉ là một ví dụ
rất nhỏ mà không ít lần hoạt động ATM tạimột số ngân hàng thương mại đã diễn
ra. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đầu tư đồng bộ cho hệ thống
ATM không chỉ về thiết bị máy ATM mà còn phải đầu tư đồng bộ về phần mềm
quản lý ATM để đem đến sự tiện dụng và an toàn nhấtcho khách hàng khi sử
dụng dịch vụ thẻ bằng máy ATM.
- Hệ thống thanh toán thẻ ATM và hệ thống chấp nhận thẻ tín dụng như Visa,
Master, Amex, của các ngân hàng thươngmại gần như mang tính cục bộ. Nếu ta
sử dụng một thẻ Visa do Vietcombank phát hành thanh toán tiền tại Singapore
chẳng hạn thì được nhưng nếu sử dụng tại Việt Nam mà máy cà thẻ không phải
của Vietcombank mà của Á Châu thì đôi khi không thể chấp nhận thẻ được. Thông
thường điều này là do sự thiếu đồng bộ trong các chương trình quản lý hệ thống
máy cà thẻ. Thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ sử dụng được trong hệ
thống máy ATM của ngân hàng đó mà thôi và cũng không thểchuyển khoản cho
người khác nếu không cùng mở một tài khoản tại cùng một hệ thống ngân hàng
79 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 955 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thươn trong xu thế hội nhập trên địan bànthành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh
lập một ủy ban chuyên trách xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng. Các tổ chức này
có nhiệm vụ là mua lại nợ của các ngân hàng đang bị tồn đọng để xử lý, bán ra để
thu hồi vốn cho ngân hàng.
Yêu cầu xử lý nợ xấu, làm trong sạch bảng cân đối của các tổ chức tín dụng
đã và đang là nội dung có ý nghĩa quan trọng và là yêu cầu cấp bách để ngân hàng
phải làm trong quá trình hiện đại hóa hoạt động cũng như đẩy nhanh việc thực
hiện cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo đòi hỏi của thị trường tạo điều kiện để
cạnh tranh và hội nhập.
Giải quyết các khoản nợ khó đòi ( các khoản cho vay không sinh lời) theo
cách thức có thể khuyến khích những người đi vay tương lai chịu trách nhiệm về
khoản vay và bù đắp chi phí chính là chìa khoá để đảm bảo cho hệ thống ngân
hàng thương mại trong tương lai.
Để đạt được các mục tiêu này không nên giảm nợ cho các doanh nghiệp
không thực hiện các biện pháp kiên quyết để cơ cấu lại và đảm bảo lợi nhuận
trong tương lai. Đối với trường hợp các doanh nghiệp nhà nước, những đơn vị
chiếm phần lớn trong toàn bộ các khoản nợ khó đòi, Ngân hàng Nhà nước và Bộ
tài chính cần thực hiện theo những nguyên tắc nhất định về điều kiện đủ để giảm
nợ. Các doanh nghiệp quốc doanh không trả nợ được chỉ được giảm nợ nếu họ đáp
ứng được những điều kiện sau:
- Đã có kế hoạch cơ cấu lại chi tiết được bộ tài chính và ngân hàng liên
quan chấp nhận.
- Vẫn thực hiện trả lãi quá hạn cho các khoản vay ngân hàng.
- Các sản phẩm hay đầu ra của họ chịu sự cạnh tranh lớn từ bên ngoài khi
chính phủ thực hiện chương trình AFTA tự do hoá nhập khẩu. Do đó chứng tỏ
Trang 57
mong muốn của các công ty trong việc cơ cấu lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh
và có nhu cầu cần được hổ trợ tài chính, sự thông cảm của các ngân hàng trong
giai đoạn chuyển đổi. Các điều kiện trên chỉ đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà
nước thực sựï có nhu cầu mới xin giảm nợ nhờ đó có thể giúp giảm chi ngân sách
trong xử lý các khoản cho vay không sinh lời. Đồng thời cũng giúp các doanh
nghiệp quốc doanh rút ra được bài học từ giải quyết nợ khó đòi.
3.2.2. Nâng mức vốn điều lệ :
Hiện nay đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam một trong
những vấn đề bất cập nổi lên là vấn đề Vốn điều lệ. Mặc dù các Ngân hàng
Thương mại không phải dùng vốn điều lệ để cho vay, song với tư các là một trung
gian tài chính thì đều quan trọng là các Ngân hàng Thương mại phải có tiềm lực tài
chính. Vốn điều lệ của các Ngân hàng Thương mại là tất cả những gì để bù đắp rủi
ro, là điều kiện để đảm bảo an toàn trong hoạt động, là bước đệm quan trọng cho
các hoạt động của ngân hàng, là vấn đề tạo uy tín của Ngân hàng Thương mại và
tạo lòng tin của công chúng vào hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên vốn điều lệ của
Ngân hàng Thương mại Việt Nam là quá nhỏ bé, ngay kể cả đối với các Ngân
hàng Thương mại Nhà Nước, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Việt Nam có vốn tự có lớn nhất cũng chỉ là 6.100 tỷ đồng còn các Ngân hàng
Thương mại nhà nước khác chỉ có khoảng 3.200 đến 3.800 tỷ đồng. Các Ngân
hàng Thương mại cổ phần có tổng số vốn khoảng 5.025,00004 tỷ đồng.
Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá an toàn ngân hàng. Theo
thông lệ quốc tế, tỷ trọng vốn tự có tối thiểu là 8% so với tổng tài sản có. Vốn tự
có của Ngân hàng Thương mại được bổ sung và cũng có thể suy giảm, song chủ
yếu vẫn là Vốn điều lệ.
Vốn tự có thấp làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các Ngân hàng
Thương mại và làm tăng rủi ro tín dụng. Chưa kể phần lớn các Ngân hàng Thương
mại hoạt động biệt lập, thiếu sự hợp tác để thực hiện các dự án đồng tài trợ cộng
Trang 58
với sự vắng bóng của thị trường tiền tệ liên ngân hàng năng động đã làm cho hiệu
quả sử dụng vốn trên toàn hệ thống rấùt thấp.
- Về giải pháp tình thế trước mắt cần xem xét lại chính sách tài khóa ưu tiên
cấp vốn bổ sung cho Ngân hàng Thương mại Nhà nước trong chi đầu tư phát triển.
Không nên để vốn tự có của Ngân hàng Thương mại nhà nước chỉ bằng vốn của
một trong những xí nghiệp công nghiệp loại vừa của ngành kinh tế quốc dân. Cần
xem xét và điều chỉnh lại trong cơ cấu chi tiêu của ngân sách nhà nước là có thể
đáp ứng được một phần khó khăn trước mắt đối với việc tăng vốn điều lệ cho
Ngân hàng Thương mại Nhà nước.
- Có thể tiến hành phát hành Trái Phiếu Chính Phủ để tái cấp vốn cho Ngân
hàng Thương mại nhà nước thông qua huy động nguồn nội lực trong công chúng.
Tuy nhiên, phải tính đến loại Trái Phiếu có lãi và được bồi hoàn khi đến hạn. Có
như vậy thì mới thực sự tăng cường năng lực tài chính cho hệ thống Ngân hàng
Thương mại Nhà nước.
- Việc tăng cường năng lực tài chính cho Ngân hàng Thương mại Nhà Nước
cũng tức là góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh cho cộng đồng các doanh
nghiệp của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Thiết
nghĩ, nước ta cần có một đến hai Ngân hàng Thương mại Nhà nước có mức vốn
điều lệ tương đối lớn ngang tầm khu vực. (Phải có vốn tự có tương đương vài tỷ
USD ).
-Có thể sáp nhập một số Ngân hàng Thương mại Nhà Nước thành một vài
Ngân hàng Thương mại lớn.
- Hoặc có thể trên cơ sở sáp nhập, sắp xếp lại các Ngân hàng Thương mại
Nhà Nước, trong đó số vốn của nhà nước đủ sức chi phối những Ngân hàng Thương
mại mới này. Qua đây có thể huy động nguồn lực trong công chúng vào quỹ đạo
của thị trường tài chính.
Trang 59
- Thông qua hình thức ngân hàng sở hữu công ty, thực hiện chế độ tham dự
đối với hàng loạt tập đoàn sản xuất kinh doanh, biến Ngân hàng Thương mại Nhà
Nước thành những tập đoàn mạnh về vốn, công nghệ, về năng lực điều hành đủ
sức làm “ bù lo ã”cho phát triển kinh tế theo yêu cầu hội nhập.
Với những tư duy mang tính định hướng trên, tin rằng hệ thống Ngân hàng
sẽ thoát khỏi tình trạng khó khăn trong một thời gian không xa. Tất nhiên, cùng
với nó phải có hàng loạt giải pháp đồng bộ và không thể giải quyết ngay tức khắc
trong một sớm, một chiều.
3.2.3: Các qui định về an toàn và tiêu chuẩn an toàn:
Hiện nay chỉ tiêu đánh giá an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Thương
mại Việt Nam rất thấp so với tiêu chuẩn an toàn của hệ thống Ngân hàng Thương
mại Quốc tế. Ngay cả qui định về an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Thương
mại của ta còn thiếu nhiều và có nhiều khi chồng chéo không thể áp dụng được.
- Giới hạn cho vay : tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách
hàng không quá 15% vốn tự có của ngân hàng
- Giới hạn về bảo lãnh, thực hiện nghiệp vụ L/C trả chậm của ngân hàng
cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng
- Dự trữ bắt buộc là số tiền ngân hàng phải duy trì thường xuyên trên tài
khoản tiền gởi Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia. Hiện nay tỉ lệ này là 5% trên tổng số dư: tiền gởi
bằng VND Không kỳ hạn, Có kỳ hạn dưới 12 tháng và số dư phát hành
giấy tờ có giá có kỳ hạn dưới 12 tháng.
- Tỉ lệ khả năng chi trả : Kết thúc ngày làm việc, ngân hàng phải duy trì
cho ngày làm việc tiếp theo tỉ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tài sản có có thể
thanh toán ngay so với các loại tài sản nợ phải thanh toán ngay.
Trang 60
Hiện nay chúng ta vẫn chưa có qui định rõ ràng và hợp lý trách nhiệm của
ngân hàng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán. Trong khi luật nhiều nước qui
định cụ thể và gắn việc đảm bảo khả năng thanh toán với tỷ lệ tài sản có sinh lời
và tỷ lệ tài sản nợ đảm bảo an toàn của ngân hàng.
3.2.4: Việc Kiểm toán và Kiểm soát nội bộ:
Đến nay các Ngân hàng Thương mại không thực hiện việc kiểm toán hoạt
động của mình, trên thực tế đã xuất hiện nhiều vụ tham nhũng của cán bộ điều
hành mà từ lâu không phát hiện ra. Tất cả các Ngân hàng Thương mại cần nghiêm
túc thực hiện việc kiểm toán, thực hiện song song ba hình thức kiểm toán: Kiểm
toán nội bộ, Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nhà nước. Thông qua kiểm toán, tạo
quan hệ tốt giữa các khách hàng và các đối tác nước ngoài, phù hợp với thông lệ
quốc tế và tạo sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Để nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực trình độ chuyên môn,
cán bộ hệ thống kiểm tra nội bộ cần được đào tạo và đào tạo lại có bài bản, tạo
nhận thức, cập nhật cho đội ngũ cán bộ chuyên môn thường xuyên học tập nâng
cao trình độ, rèn luyện kỹ năng, phẩm chất nhằm góp phần giúp ngân hàng thực
hiện đúng theo nội qui , qui định của ngành, của nhà nước.
3.2.5: Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, phát triển công nghệ ngân hàng:
Trong những năm qua là những năm Kinh tế Thế giới có nhiều biến động, tác
động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta. Trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng năm
2004 đã đánh dấu một bước chuyển biến mới về việc phát triển các dịch vụ Ngân
hàng. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các dịch vụ của các cá nhân:
Dịch vụ thẻ, Dịch vụ kiều hối,… Các ngân hàng đang tích cực gia tăng khách hàng ,
gia tăng số lượng máy ATM, triển khai nhiều tiện ích dịch vụ mới: Thanh toán hóa
đơn tiền điện, Nước, Điện thoại trả trước…….
Trang 61
triển các dịch vụ ngân
áp dẫn, với phong cách giao
ển tiền ngoài nước, dịch vụ thu chi tiền tại chỗ, dịch vụ trả lương
cho nhân viên, dịch v ï ngân hàng Homebanking, ngân
hàng điện tử,….
Thực tế cho thấy các Ngân hàng đều quan tâm đến việc phát triển dịch vụ phi
tín dụng. Các Ngân hàng Thương mại Nhà Nước đang trong tiến trình tái cơ cấu và
một trong những nội dung mấu chốt của kế hoạch này là Hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng theo mô hình hiện đại. Trên cơ sở đó sẽ
đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng bán lẻ hướng tới nhóm khách hàng tiềm năng là
người dân Việt Nam, các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏû, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Trong khi đó các Ngân hàng Thương mại cổ phần với quy mô
vốn nhỏ mạng lưới chi nhánh hạn chế ,đã lựa chọn phát
hàng và hướng vào nhóm đối tượng khách hàng là dân cư và các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh làm thế mạnh để phát triển ngay từ đầu.
Trong cuộc đua này, các Ngân hàng Thương mại cổ phần được xem là mạnh
dạn đi đầu về ứng dụng và cung ứng các dịch vụ mới
Các Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam có hệ thống cung cấp dịch vụ có chất
lượng cao nhờ hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và áp dụng những sản phẩm,
dịch vụ của ngân hàng mẹ. Mặc dù phạm vi hoạt động chưa mở rộng nhưng số chi
nhánh ngân hàng nước ngoài như : Citi Bank, ANZ, HSBC,… đã cho thấy họ đang
tập trung phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Giải thưởng dành cho ngân hàng
bán lẻ tốt nhất năm 2003 do Asean Banker lựa chọn cho ANZ Hà Nội là minh
chứng rõ ràng. Với các dịch vụ cung cấp đa dạng, ha
dịch chuyên nghiệp, hiện đại hóa các ngân hàng nước ngoài đã và đang ngày càng
thu hút khách hàng đông đảo sử dụng dịch vụ của họ.
Hiện nay các ngân hàng trong nước đang tăng cường tập trung phát triển dịch
vụ ngân hàng. Bởi vì các khoản dịch vụ này luôn nắm chắc trong tay là sẽ thu
được, ít gặp rủi ro hơn so với cho vay đầu tư tín dụng rất nhiều. Đối với lĩnh vực
dịch vụ này ngân hàng cần phải đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ: chuyển tiền
trong nước, chuy
ụ thu đổi ngoại tệ hay dịch vu
Trang 62
áp. Đây là lợi thế để cạnh tranh với các công
VCB, UOB…… cũng đang mở rộng mạng lưới để phát
trie
Do đó, ngoài Vietcombank là ngân hàng có thế mạnh về dịch vụ thu đổi ngoại tệ,
• Đối với dịch vụ chuyển tiền :
- Chuyển tiền trong nước: Thực tế cho thấy các ngân hàng thương mại chưa
khai thác hết thế mạnh trong lĩnh vực thực hiện dịch vụ chuyển tiền trong nước.
Đây là thị trường rộng lớn mà từ trước đến nay ngân hàng chưa đi sâu, phổ
biến rộng rãi đến người dân. Lĩnh vực này ngày nay vẫn còn hình thức gửi tiền
theo xe, qua bưu điện. Bưu điện đang phát huy mạnh mẽ nhờ lợi thế là có mạng
lưới đến tận phường xã. Qua khảo sát sơ bộ cho thấy nhu cầu chuyển tiền nhanh
trong dân cư có xu hướng tăng nhanh do điều kiện kinh tế phát triển, thu nhập
tăng, sự dịch chuyển cơ học dân cư tăng … tuy nhiên phí chuyển tiền hiêïn còn
tương đối cao. Khi các ngân hàng thương mại triển khai thành công dự án hiện đại
hóa thì chi phí cho dịch vụ này rất tha
ty bưu điện hiện nay.
Chuyển tiền kiều hối:
Trong những năm gần đây, lượng tiền kiều hối chuyển về cho nước ta gia
tăng đáng kể. Theo đánh giá chính thức của ngân hàng nhà nước lượng kiều hối
vào Việt Nam năm 2003 là 2,7 tỷ USD dự kiến năm 2004 đạt 3 tỷ USD và năm
2005 là 3,5 tỷ USD. Đây là nguồn ngoại tệ tiềm năng cho các ngân hàng thương
mại sử dụng đồng thời gia tăng phí dịch vụ, thu nhập cho ngân hàng. Hiện nay,
ngân hàng Đông Á được xem là ngân hàng năng động hàng đầu trong lĩnh vực chi
trả kiều hối ( chiếm 20-25% thị phần) với các hình thức chi trả phong phú đa dạng:
chi trả bằng ngoại tệ, bằng VND và cả bằng vàng nếu khách hàng có nhu cầu. Một
số ngân hàng khác như: ACB,
ån dịch vụ này.
Dịch vụ thu đổi ngoại tệ:
Sự khởi sắc của du lịch Việt Nam và đầu tư từ nước ngoài đã khiến cho lượng
kiều hối ngày càng gia tăng, nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ ra tiền mặt cũng tăng.
Trang 63
các ngân hàng thương mại khác cũng đang tích cực mở rộng mạng lưới các điểm
thu đổi ngoại tệ để phát triển dịch vụ này.
Với dịch vụ thu đổi ngoại tệ, nhận tiền kiều hối giúp ngân hàng ngày càng có
nguồn ngoại tệ lớn để thanh toán xuất nhập khẩu và thanh toán các khoản nợ nước
ngoài khi đến hạn. Bên cạnh đó ngân hàng còn thu được khoản phí khá lớn trong
việc thu đổi ngoại tệ và nhận tiền kiều hối về. Trong khoản dịch vụ này ngân hàng
tăng thêm được thu nhập nhưng mức độ rủi ro thấp. Hơn nữa, trong việc thu đổi
ngoại tệ ngân hàng là nơi trung gian trong việc chuyển đổi ngoại tệ, lĩnh vực này
ngân hàng cũng thu được lợi nhuận thông qua hưởng chênh lệch tỷ giá mà không
có rủi ro gì.
Dịch vụ ngân hàng điện tử:
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật của công nghệ mới như :
Internet, mạng điện thoại di động, web,… Bên cạnh đó có những khách hàng luôn
bận rộn với công việc, thiếu thời gian nên không thể đến ngân hàng giao dịch theo
giờ hành chính được, từ đó giúp hệ thống ngân hàng có một mô hình ngân hàng
mới: ngân hàng điện tử ra đời phục vụ cho yêu cầu đó.
Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay đã giúp cho khách hàng trở
thành những thượng đế đúng nghĩa, ngày nay khách hàng có thể tiến hành mọi
hoạt động tài chính của mình mỗi nơi mỗi lúc, 24/24. Mỗi ngày qua khách hàng lại
được cung cấp dịch vụ qua nhiều kênh liên lạc mới : ngân hàng qua điện thoại
phone banking, ngân hàng tại nhà qua mạng Internet - Home banking, ngân hàng
qua mạng điện thoại di động – Mobile banking, ngân hàng tự động- Kiosk banking
,… Phát triển ngân hàng điện tử là xu hướng phát triển của các ngân hàng thương
mại trên thế giới hịên nay. Nhờ sự phát triển vượt bật của công nghệ thông tin, các
hoạt động thương mại điện tử phát triển nhanh chóng, là tiền đề cho các dịch vụ
của ngân hàng điện tử phát triển. Hiện nay ở Việt Nam còn xa lạ với ngân hàng
Trang 64
điện tử vì công nghệ thông tin chưa phát triển người dân còn chưa biết nhiều về lợi
ích mang lại của ngân hàng điện tử.
- Các ngân hàng thương mại Việt Nam như VCB, ACB và ICB…… đã bắt đầu
nghiên cứu, quan tâm phát triển các dịch vụ ngân hàng qua mạng Interrnet, dịch vụ
ngân hàng qua mobile phone… và sử dụng các dịch vụ này như một lợi thế cạnh tranh.
Hệ thống ngân hàng thế giới đã trãi qua nhiều thử nghiệm và có thể tổng kết
những thành công nhất định, khẳng định xu thế tất yếu của ngân hàng điện tử trong
thế kỷ XXI . Sự phát triển này đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam còn đang đứng
ngoài cuộc phải nổ lực nhằm đi trước, đón đầu, tiếp thu kinh nghiệm để xây dựng
một hệ thống hiệu quả và phù hợp cho chính mình. Trong xu thế hội nhập và tự do
hóa tài chính cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn nhưng cũng mở ra nhiều cơ
hội, thành công chắc chắn chỉ đến với những ai đủ bản lĩnh và tự tin nắm bắt thời
cơ, tiếp thu kinh nghiệm, cũng như có những bước đi vững chắc trên đôi chân của chính
mình.
Dịch vụ thẻ :
Hiện nay việc phát triển dịch vụ thẻ ATM ở Việt Nam người dân chủ yếu
dùng để rút tiền tự động. Các máy rút tiền tự động chỉ được trang bị ở các thành
phố lớn và khu dân cư trung tâm các tỉnh lớn, chưa được phổ biến ở hầu hết mọi
nơi và đây cũng là điều bất lợi cho khách hàng khi dùng thẻ . Nhưng bất tiện một
điều là thẻ rút tiền tự động ATM của một ngân hàng này thì chỉ được rút tiền ở tại
ngân hàng mà mình mở thẻ chứ không thể rút ở ngân hàng khác.
Hiện nay việc sử dụng thẻ ATM đã được phát triển thêm một số tính năng
của thẻ nhằm giúp cho người sử dụng có được những tính năng tiện lợi nhất. Ví dụ
việc thanh toán hóa đơn của ATM, gửi tiết kiệm bằng thẻ của ngân hàng Đông Aù
một số thẻ nội địa có thể thanh toán tiền taxi của ngân hàng Á Châu hay thanh
toán phí bảo hiểm như phí bảo hiểm của Prudential, của Vietcombank HCM … Tuy
nhiên thị trường thẻ ở Việt Nam còn nhiều bất cập.
Trang 65
- Để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các ngân hàng thương mại
phải có một công nghệ thanh toán hiện đại, an toàn và nhanh chóng. Để có được
điều này, đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và cần có sự đầu tư đồng bộ mà không phải
ngân hàng nào cũng dễ dàng thực hiện. Chính sự đầu tư không đồng bộ dễ dẫn đến
việc thanh toán thẻ không được đảm bảo an toàn và chính xác. Đã có một số
trường hợp xảy ra đối với một vài ngân hàng thương mại mà dịch vụ thẻ vừa mới
được quan tâm là đôi khi một số khách hàng đã rút một số tiền mặt nhất định trên
tài khoản bằng thẻ ATM nhưng trên tài khoản vẫn chưa bị trừ số tiền đó (chưa bị
ghi nợ số tiền tương ứng đó). Thường trường hợp này là do phần mềm xử lý ATM
chưa đồng bộ với phần mềm xử lý tài khoản tại kế toán quầy dẫn đến tình trạng
nếu khách hàng sau khi rút tiền tại máy ATM sẽ tiếp tục rút tiền tại quầy giao dịch
sẽ ảnh hưởng không tốt đến uy tín và hoạt động ngân hàng. Đây chỉ là một ví dụ
rất nhỏ mà không ít lần hoạt động ATM tại một số ngân hàng thương mại đã diễn
ra. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đầu tư đồng bộ cho hệ thống
ATM không chỉ về thiết bị máy ATM mà còn phải đầu tư đồng bộ về phần mềm
quản lý ATM để đem đến sự tiện dụng và an toàn nhất cho khách hàng khi sử
dụng dịch vụ thẻ bằng máy ATM.
- Hệ thống thanh toán thẻ ATM và hệ thống chấp nhận thẻ tín dụng như Visa,
Master, Amex,… của các ngân hàng thương mại gần như mang tính cục bộ. Nếu ta
sử dụng một thẻ Visa do Vietcombank phát hành thanh toán tiền tại Singapore
chẳng hạn ……thì được nhưng nếu sử dụng tại Việt Nam mà máy cà thẻ không phải
của Vietcombank mà của Á Châu thì đôi khi không thể chấp nhận thẻ được. Thông
thường điều này là do sự thiếu đồng bộ trong các chương trình quản lý hệ thống
máy cà thẻ. Thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ sử dụng được trong hệ
thống máy ATM của ngân hàng đó mà thôi và cũng không thể chuyển khoản cho
người khác nếu không cùng mở một tài khoản tại cùng một hệ thống ngân hàng.
Chính sự cạnh tranh mang tính độc quyền của các ngân hàng thương mại Việt
Nam đã làm lãng phí tiền của đầu tư cho các hệ thống ngân hàng thương mại tại
Trang 66
Việt Nam. Các ngân hàng thương mại cần liên kết với nhau để nếu hệ thống máy
ATM của Vietcombank đầu tư chẳng hạn thì khách hàng của ngân hàng khác như
BIDV ngân hàng đầu tư phải trả một khoản phí nào đó khi sử dụng hệ thống ATM
của VCB nhưng vẫn sử dụng được và ngược lại.
Bên cạnh đó các phần mềm quản lý ATM nên cho ra ngoài hệ thống một
ngân hàng thương mại. Thật ra việc này đã được một số ngân hàng áp dụng nhưng
chưa thật sự phổ biến. Thật sự đối với hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam
thì không phải ngân hàng nào cũng có đủ điều kiện vốn và công nghệ để xây
dựng được một hệ thống thanh toán thẻ hoàn chỉnh. Chính vì vậy mà việc liên kết
của các ngân hàng thương mại nhỏ với những ngân hàng đã có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực thẻ là một việc rất tốt trong việc phát triển hệ thống thanh toán thẻ
tại Việt Nam. Trường hợp này cả ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn đều có lợi.
• Việc phát hành thẻ tín dụng chưa thực sự lôi cuốn và thúc đẩy việc sử dụng
thẻ tín dụng như một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Hầu như không
phải ai cũng được ngân hàng thương mại cấp thẻ tín dụng, nghĩa là người sử dụng
thẻ được quyền xài trước và sau đó đến hạn thanh toán mới trả tiền sau. Và trên
tài khoản của họ tại thời điểm sử dụng thẻ không nhất thiết phải có đủ tiền tương
ứng mà họ cần sử dụng. Đây thực chất là ngân hàng cho chủ thẻ vay tín chấp. Hiển
nhiên, trường hợp này sẽ có rủi ro, nhưng nếu các ngân hàng buộc người sử dụng
thẻ phải có đủ tiền đảm bảo trên tài khoản thì khó thu hút khách hàng, chủ thẻ
chắc chắn sẽ thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản mà không cần sử dụng
thẻ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện nay sử dụng tiền mặt rất nhiều.
Hiện nay, mức độ cạnh tranh giữa các ngành các lĩnh vực ngày càng khốc
liệt trên cơ sở thôn tính lẫn nhau từ phạm vi một quốc gia đến phạm vi một khu
vực và toàn cầu. Hoạt động ngân hàng không nằm ngoài các phạm vi thôn tính lẫn
nhau đó. Do đó, nếu các ngân hàng thương mại không tiến hành đa dạng hóa các
sản phẩm tức là không tiến hành cải tổ toàn diện các mặt hoạt động của mình từ
mô hình tổ chức đến quản trị điều hành, đến mở rộng phạm vi hoạt động thông qua
Trang 67
việc tăng vốn điều lệ, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng mở rộng mạng lưới chi
nhán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43099.pdf