Luận văn Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An

Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".

Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ này giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở là người chỉ đạo cuối cùng và trực tiếp đối mặt và giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở.

Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Một trong những hạn chế đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An cũng không tránh khỏi căn bệnh này. Cùng những căn bệnh khác, bệnh kinh nghiệm đang là trở lực đối với cán bộ, đảng viên Long An. Đặc biệt là ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Nó đã làm cho hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ này bị hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu " bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An " là một vấn đề cần thiết. Làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện đặc trưng, nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, để từ đó tìm ra phương hướng và giải pháp từng bước khắc phục nó, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng và cấp bách đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung, Long An nói riêng.

 

doc91 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang mang lại những thành quả to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thắng lợi của quá trình đổi mới là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Đội ngũ này giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối có hiệu lực nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở là người chỉ đạo cuối cùng và trực tiếp đối mặt và giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn những hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Một trong những hạn chế đó là họ đã mắc phải bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ này đã gây tác hại rất lớn trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An cũng không tránh khỏi căn bệnh này. Cùng những căn bệnh khác, bệnh kinh nghiệm đang là trở lực đối với cán bộ, đảng viên Long An. Đặc biệt là ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Nó đã làm cho hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ này bị hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu " bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cỏn bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An " là một vấn đề cần thiết. Làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện đặc trưng, nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, để từ đó tìm ra phương hướng và giải pháp từng bước khắc phục nó, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng và cấp bách đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay nói chung, Long An nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu về bệnh kinh nghiệm, thể hiện là có nhiều bài viết trên tạp chí, in trong sách. Nhiều tác giả đã đề cập ít nhiều tới những biểu hiện, nguyên nhân, tác hại của bệnh kinh nghiệm ở nước ta cũng như những phương hướng khắc phục. Có thể kể một số công trình có liên quan đến vấn đề này như: - Dương Phú Hiệp: Góp phần phân tích nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém vận dụng các quy luật, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6/1987. - Nguyễn Ngọc Long: Kinh nghiệm và lý luận, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 01/1984; và Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1988. - Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp chí Triết học, số 2/1988. - Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận, Tạp chí Thông tin lý luận, số 6/1988 v.v... Tuy nhiên, đề cập tới bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở Long An nói riêng thì hầu như chưa có công trình nào. 3. Giới hạn của luận văn Luận văn chỉ nghiên cứu những biểu hiện đặc trưng, bản chất, nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), gồm: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân qua khảo sát thực tế ở Long An. 4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục đích Trên cơ sở làm sáng tỏ bản chất, biểu hiện, tác hại và nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa căn bệnh này. 4.2. Nhiệm vụ - Tìm hiểu bản chất, những biểu hiện chủ yếu, tác hại cũng như nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở trong quá trình đổi mới ở tỉnh Long An. - Trình bày một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý lý luận nhận thức mác xít. Đồng thời, luận văn cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng và lý luận nhận thức, các văn kiện của tỉnh Đảng bộ Long An, ủy ban nhân dân tỉnh Long An cũng như các báo cáo của một số Đảng bộ huyện Long An. - Luận văn kế thừa các tư tưởng khoa học của tác giả khác có liên quan đến đề tài. 5.2. Về phương pháp Trong luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp; phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc, phương pháp điều tra khảo sát thực tế. 6. Cái mới của luận văn - Bước đầu khái quát một số nét đặc thù của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở Long An. Qua đó vạch ra tác hại của căn bệnh này. - Góp phần chỉ ra nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An. 7. ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề về lý luận nhận thức, về công tác xây dựng Đảng và công tác tư tưởng hiện nay ở các Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng lý luận chính trị huyện v.v... 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 6 tiết. Chương 1 Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở long an - bản chất, biểu hiện và nguyên nhân 1.1. Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm 1.1.1. Bản chất của bệnh kinh nghiệm Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức về hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Nhờ có nhận thức, con người mới có tri thức về thế giới. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức thế giới bởi con người. Nhận thức không phải là một hành động nhất thời, giản đơn, máy móc, thụ động mà là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Kết quả của quá trình đó đem lại cho con người những tri thức ở những trình độ khác nhau - kinh nghiệm và lý luận. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Để nhận thức và cải tạo thế giới có hiệu quả, con người cần phải có cả kinh nghiệm và lý luận. Kinh nghiệm có vai trò to lớn, không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người và nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - một sự nghiệp rất mới mẻ và vô cùng khó khăn, phức tạp. ở đây không thể tìm câu giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra, từ trong sách vở hay bằng suy diễn thuần túy, hoặc từ lý luận có sẵn. Chính kinh nghiệm đông đảo của quần chúng nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ đem lại cho chúng ta những bài học quý báu. Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta khái quát, bổ sung phát triển lý luận đã có. Không có kinh nghiệm thì không có lý luận, không có khoa học. Mọi tri thức của chúng ta hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ kinh nghiệm thực tiễn. Song nếu tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tuyệt đối, "là chìa khóa vạn năng" cho phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo thực tiễn thì sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm. Trong Đại từ điển Tiếng việt, khái niệm "kinh nghiệm" được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được nhờ sự tiếp xúc; từng trải thực tế [7, tr. 948]. Điều này cũng có nghĩa, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan, cho nên xét về mặt nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, thế giới khách quan là tính thứ nhất. Tức là nội dung mà kinh nghiệm phản ánh thuộc thế giới khách quan. Kinh nghiệm chỉ có ở con người, nhưng nội dung của kinh nghiệm lại không phụ thuộc vào con người mà chỉ phụ thuộc vào sự vật khách quan được kinh nghiệm đó phản ánh. Tuy nhiên, kinh nghiệm không phải là sự thể hiện nội dung thụ động của nhận thức bởi con người mà là kết quả của sự tác động tích cực của con người đối với thế giới khách quan. Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử cụ thể. Kinh nghiệm là cái riêng nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nhất định. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đã có. Thế hệ sau, khi kế thừa những kinh nghiệm đó, thông qua hoạt động thực tiễn sẽ làm đầy đủ, chính xác thêm những kinh nghiệm cũ bằng hàng loạt những tư liệu mới và làm giàu thêm kho tàng kinh nghiệm quý báu ấy bằng những kinh nghiệm mới. Tất nhiên, kho tàng tri thức của nhân loại không chỉ có những tri thức kinh nghiệm mà còn có tri thức lý luận. Kinh nghiệm xét về bản chất có những đặc trưng sau: - Kinh nghiệm là một dạng tri thức được thu nhận và tích lũy qua hoạt động thực tiễn của con người còn mang tính trực quan cảm tính. Trong quá trình tác động giữa con người với thế giới hiện thực, con người trực tiếp thu nhận, tích lũy và hình thành những tri thức nhất định về thế giới. Những tri thức này bước đầu phản ánh một số thuộc tính bên ngoài của đối tượng. Những tri thức này được củng cố cùng với những kỹ năng hoạt động của con người . Đó là kinh nghiệm. Như vậy, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan. Kinh nghiệm là một dạng tri thức có tính chất trực quan cảm tính, nhưng không được đồng nhất kinh nghiệm với nhận thức cảm tính. Hơn nữa, việc tách nhận thức thành hai hình thức cảm tính và lý tính chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt nhận thức luận. Thực tế cho thấy, không có một kết quả của một quá trình nhận thức nào lại không là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tính chất cảm tính của kinh nghiệm nói lên tính chất, trình độ phản ánh của kinh nghiệm. Kinh nghiệm phản ánh chủ yếu dựa vào quan sát trực quan, vào những hoạt động có tính chất thực nghiệm và vào những quá trình trao đổi thông tin mang tính trực tiếp giữa con người với thế giới và giữa con người với con người. Vả lại, kinh nghiệm cũng đạt tới trình độ khái quát, trừu tượng hóa nhất định (tức là đã có sự tham gia của lý tính) chứ không phải chỉ dừng lại ở những tập hợp tri giác, biểu tượng của quá trình nhận thức cảm tính. Lênin đã chỉ ra rằng: Dòng kinh nghiệm nằm ở cơ sở nhận thức của chúng ta, là không có lý tính, không có trật tự, không có tất cả cái gì phù hợp với quy luật là quan điểm duy tâm chủ nghĩa [39, tr. 199]. Do đó, chỉ có thể xét tính chất cảm tính của kinh nghiệm với tư cách là một dạng tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ, mới phản ánh được những thuộc tính bên ngoài nhất định của sự vật, hiện tượng. Ph. Ăngghen đã cho rằng, kinh nghiệm ban đầu cũng còn nông cạn, chưa sâu sắc, chưa chính xác, chưa phản ánh được tính tất nhiên. Là kết quả của quá trình phản ánh thế giới hiện thực của con người, kinh nghiệm có ưu thế ở chỗ là nó phản ánh sinh động, trực tiếp sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung phản ánh của kinh nghiệm thuộc về hiện thực, về đời sống thực tiễn hàng ngày của con người. Đây cũng chính là chỗ khác nhau căn bản giữa kinh nghiệm với sự tư biện suy luận thuần túy mang tính chủ quan. Bởi vậy, trong quá trình phản ánh thế giới khách quan của con người, kinh nghiệm luôn là yếu tố không thể thiếu được. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, với tính chất phản ánh đó, tác dụng của kinh nghiệm là rất có hạn, giá trị của sự khái quát chưa sâu sắc. Nói cách khác, kinh nghiệm chỉ phản ánh thích hợp cho những không gian, thời gian nhất định cụ thể mà thôi, và trong những điều kiện, những tình huống mới xuất hiện thì kinh nghiệm đó dễ trở nên bất cập. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Kinh nghiệm là tốt, là quý báu song kinh nghiệm có hạn chế của nó, chẳng qua chỉ là từng bộ phận chỉ thiên lệch về một phía mà thôi. Nếu đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều..." [48, tr. 324]. Là một trạng thái phản ánh của ý thức, trong quá trình tác động tới đối tượng, kinh nghiệm không thể tiếp cận tới cái phổ biến, cái bản chất sâu sắc bên trong của đối tượng. Dựa vào kinh nghiệm, con người có thể nhận thức được cái riêng từ những đối tượng cảm tính trực tiếp. Trong cái riêng, kinh nghiệm phản ánh một cách sinh động, phong phú hơn. Mặc dù vậy, kinh nghiệm không thể phản ánh được toàn bộ cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của nó. Kinh nghiệm bao giờ cũng mang tính riêng của một cá thể, nhóm, một giai cấp, một dân tộc, một khu vực, trong một hoàn cảnh, một thời gian nhất định. Hơn nữa, kinh nghiệm luôn là kinh nghiệm về cái đã qua, vì thế, kinh nghiệm không thể trở thành khuôn mẫu để áp dụng một cách máy móc cho các đối tượng khác nhau trong những không gian và thời gian khác nhau. Trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi việc tiếp thu kinh nghiệm, vận dụng kinh nghiệm phải biết chọn lọc, sáng tạo trên nguyên tắc kế thừa và có quan điểm lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm không thể nhận thức được cái chung trong bản thân một sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào đó. Cái chung chỉ được biểu hiện trong và qua những kinh nghiệm với tính cách là sự phản ánh lặp đi lặp lại trên những lớp đối tượng sự vật, hiện tượng không đồng nhất. Bởi vậy, trong quá trình phản ánh cái chung, kinh nghiệm tỏ rõ sự kém sâu sắc. Đúng như Mác-Ăngghen đã viết, Đến một trình độ phát triển nhất định, khi các nhu cầu của con người và các dạng vận động nhiều, thỏa mãn nhu cầu đã tăng lên và phát triển hơn, con người đặt những tên gọi riêng biệt cho hàng loạt các đối tượng mà con người đã nhờ kinh nghiệm mà phân biệt nó với thế giới bên ngoài còn lại... Những tên gọi bằng lời như vậy, chỉ biểu hiện dưới dạng biểu tượng, cái mà hoạt động lặp đi lặp lại đã biến thành kinh nghiệm [57, tr. 239]. - Kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người. Như ta đã biết, nhận thức là quá trình hình thành, phát triển của những trình độ phản ánh khác nhau và liên hệ hữu cơ với nhau. Đó là nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ phản ánh có vị trí và vai trò khác nhau nhưng chúng nương tựa, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm cung cấp những thông tin, tri thức ban đầu về sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm thường không tách rời những hoạt động có tính vật chất, cụ thể, những quan sát trực quan và những trao đổi thông tin trực tiếp giữa các chủ thể về đối tượng. Cho nên, trong nhận thức vai trò của kinh nghiệm là hết sức to lớn. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm thể hiện không những là một trình độ phản ánh mà còn là phương pháp cho quá trình phản ánh. Khi đề cập tới kinh nghiệm ta không nên dừng lại ở dạng kinh nghiệm thông thường, những kinh nghiệm thu nhận được do quan sát trực tiếp trong cuộc sống, lao động, sản xuất, mà còn phải thấy những kinh nghiệm khoa học - những kinh nghiệm thu nhận được qua thực nghiệm khoa học. Những kinh nghiệm này là công cụ sắc bén thúc đẩy nhận thức lên một trình độ cao hơn trong quá trình tiếp cận chân lý như Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong kinh nghiệm, cái quan trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng trong sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng" [46, tr. 687]. - Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu vô cùng quan trọng của quá trình nhận thức. Kinh nghiệm càng phong phú thì càng tạo ra nhiều dữ kiện, tài liệu cho khái quát lý luận. Không có kinh nghiệm, khoa học không thể phát triển được, khoa học đã và sẽ luôn luôn gắn liền với kinh nghiệm. Thực tế lịch sử đã chứng minh, khoa học đã trở thành khoa học là bởi lẽ nó được phát triển từ kinh nghiệm và khắc phục những mặt hạn chế của kinh nghiệm. Tiến bộ khoa học ngày nay cũng không thể có được nếu thiếu các ngành khoa học có tính chất thực nghiệm. Khoa học hiện đại biết tới hàng tỷ dạng vật chất trong tự nhiên, hầu hết chúng đều được phát hiện ra bằng con đường thực nghiệm khoa học. Trong quá trình nhận thức và phát triển tư duy của nhân loại, kinh nghiệm có vai trò cực kỳ to lớn. Nếu thiếu kinh nghiệm thì không có lý luận, lý luận xét ở góc độ nhất định chính là kết quả của sự tổng kết khái quát kinh nghiệm. Nếu lý luận tách khỏi kinh nghiệm, không xuất phát từ kinh nghiệm nói chung thì lý luận đó sẽ rất có thể sẽ là một sự tưởng tượng hoang đường, hoặc là một sản phẩm thuần túy của ý thích chủ quan mà thôi. Tất nhiên, không phải mọi lý luận đều được ra đời trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận và kinh nghiệm. Kinh nghiệm xét đến cùng vẫn là cơ sở để chúng ta kiểm tra, sửa đổi, bổ sung phát triển lý luận đã có và tổng kết khái quát thành lý luận mới. Lênin đã chỉ rõ: "Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung" [41, tr. 220]. Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử" [49, tr. 497]. Kinh nghiệm cũng như lý luận đều là kết quả của hoạt động nhận thức của con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn. Chúng đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng khác nhau về trình độ, tính chất phản ánh hiện thực. Con đường phát triển từ kinh nghiệm lên lý luận cũng chính là con đường đi từ cái đơn nhất đến cái phổ biến, từ cái phổ biến ít đến cái phổ biến hơn, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Đó cũng chính là quá trình tổng kết, khái quát kinh nghiệm nhằm gạt bỏ cái ngẫu nhiên, cái bề ngoài, cái chưa phải là bản chất để tiến đến cái bản chất, cái quy luật vận động của sự vật. Quá trình đó chính là quá trình con người hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Lý luận chỉ có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn và bản thân nó có đạt được sự phản ánh đúng đắn chân lý khách quan, phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Chỉ có thực tiễn mới là cơ sở, là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tri thức. Hiểu biết của con người cũng vì vậy, nếu không có kiểm nghiệm hoặc kiểm nghiệm chưa đạt tới trình độ nhất định về phạm vi cũng như mức độ phản ánh thì cũng không có đủ cơ sở cho ra đời một lý luận khoa học thật sự. Kinh nghiệm và lý luận tuy là hai trình độ khác nhau của nhận thức nhưng chúng lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Kinh nghiệm là cơ sở là tiền đề cho lý luận, lý luận luôn định hướng cho hoạt động thực tiễn và thực tiễn đến lượt mình lại cung cấp cho lý luận hàng loạt những kinh nghiệm mới. Chỉ có thể lấy mặt mạnh của lý luận để khắc phục tính hạn chế vốn có của kinh nghiệm và lấy mặt mạnh của kinh nghiệm để khắc phục khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng của lý luận. Có như vậy mới làm cho lý luận ngày càng hoàn hảo, chính xác, kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, kinh nghiệm dù có vai trò quan trọng đến đâu thì nó cũng chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc, chưa thể nắm được cái tất yếu, mối quan hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Do đó "sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu" [46, tr. 718]. Kinh nghiệm có chứa đựng nội dung khách quan trong quá trình phản ánh đối tượng, song trong sự phản ánh, chủ thể kinh nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng cho việc xác định ý nghĩa của nó đối với toàn bộ quá trình phản ánh. Do đó có thể nói, ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của kinh nghiệm còn tùy thuộc vào quan niệm và cách xử lý của chủ thể đối với kinh nghiệm. Vả lại, kinh nghiệm có tính chất trực quan dễ nhận biết và có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người nên chúng dễ bị con người tuyệt đối hóa. Những người cường điệu hoặc tuyệt đối hóa kinh nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra là những người mắc bệnh kinh nghiệm. Trong triết học, bệnh kinh nghiệm được hiểu là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là duy nhất. Biểu hiện của người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao thái quá kinh nghiệm, coi thường lý luận, tri thức khoa học. Vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc dẫn đến áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sai lầm của người mắc bệnh kinh nghiệm còn thể hiện ở chỗ họ nhân danh đề cao thực tiễn để hạ thấp lý luận, nhưng thực tiễn mà họ đề cao là thực tiễn được hiểu bằng vô số các sự kiện riêng lẻ trong đời thường. Hơn nữa, họ nắm thực tiễn chỉ ở những biểu hiện vụn vặt, bề ngoài. Trong khi đó, họ nắm lý luận một cách chấp vá và thiếu hệ thống nên họ càng hạ thấp lý luận. Một sai lầm nữa của người mắc bệnh kinh nghiệm về phương diện nhận thức luận và phương pháp luận là ở chỗ, họ không nắm được thực chất mối quan hệ biện chứng giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, giữa lý luận và thực tiễn. Họ chỉ biết xem xét sự thật một cách giản đơn máy móc. Lênin đã chỉ rõ: "Nếu xét các sự thật trong chỉnh thể của chúng trong mối liên hệ của chúng thì sự thật không những bao giờ cũng "bướng bỉnh", mà còn là những chứng cứ chắc chắn chứng minh được. Nếu xét sự việc nhỏ đó không trong chỉnh thể của chúng không trong mối liên hệ của chúng, nếu chúng bị tách rời nhau và bị lựa chọn tùy tiện thì chúng thật đúng chỉ là những trò chơi hay là một thứ tệ hơn nữa [38, tr. 436]. Những người mắc bệnh kinh nghiệm thường lấy sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của bản thân làm tiêu chí duy nhất cho nhận thức và hành động. Họ không hiểu được rằng, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ có ý nghĩa hẹp, cục bộ, chứ không mang tính phổ biến tất yếu. Những kinh nghiệm đó chỉ là sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cụ thể riêng biệt, và trong nhiều trường hợp chúng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên. Trong thực tế cụ thể, sự việc diễn ra một cách khác mà chúng ta đã không thể (và bất cứ ai cũng không thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo hơn và phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, người mắc bệnh kinh nghiệm sẽ bế tắc, mất phương hướng khi số lượng tri thức kinh nghiệm tăng lên. Khi đó, họ sẽ bị chìm ngập trong đống hỗn độn các kinh nghiệm. Từ đây, họ rất dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí bắt hiện thực khuôn theo kinh nghiệm của bản thân và rơi vào trạng thái cực đoan đối lập, từ chỗ tin vào những kinh nghiệm cảm tính tới chỗ chẳng tin vào cái gì cả vì những cái cực đoan thường hay gặp nhau. Ăngghen cũng đã từng chỉ ra rằng: "ở đây người ta thấy hai năm rõ mười rằng con đường chắc chắn nhất từ khoa học tự nhiên tới chủ nghĩa thần bí là con đường nào. Đó không phải là sự phát triển dồn dập về lý luận của các nhà triết học tự nhiên, mà là chủ nghĩa kinh nghiệm nông cạn nhất, khinh thường mọi lý luận, không tin vào mọi tư duy" [46, tr. 507]. Lênin cũng đã chỉ ra rằng, trước những phát minh mới của khoa học đặc biệt là vật lý học và do không vượt được giới hạn của tri thức kinh nghiệm đã có các nhà khoa học trượt dài sang chủ nghĩa duy tâm. Chẳng hạn như Poanh - Carê do không hiểu phép biện chứng của quá trình nhận thức từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất cấp một đến bản chất sâu hơn đã cho rằng, phát minh ra Radium đã lật đổ nguyên lý bảo toàn năng lượng cũng như hầu hết tất cả những nguyên lý cũ khác của vật lý học. Từ đó, ông đưa ra kết luận duy tâm về mặt nhận thức luận như sau: Không phải giới tự nhiên đem lại cho chúng ta (hay ép buộc chúng ta phải nhận) những khái niệm về không gian và thời gian, mà chính chúng ta đem những khái niệm ấy lại cho giới tự nhiên, phàm cái gì không phải là tư tưởng đều là hư vô thuần túy [39, tr. 312]. Như vậy, bệnh kinh nghiệm có tác hại vô cùng to lớn đối với quá trình nhận thức chân lý. Nó gây ra tâm lý ngại học tập và bảo thủ trong tổ chức hoạt động thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nó góp phần củng cố tâm lý đề cao già làng, trưởng bản thái quá, cũng như tâm lý coi thường lớp trẻ. Nó cũng làm cho người ta không hiểu đúng vai trò của đội ngũ trí thức, của lý luận. Để hiểu rõ bệnh kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Long An nói riêng, chúng ta cần xác định và phân biệt rõ hơn khái niệm "bệnh kinh nghiệm và khái niệm" chủ nghĩa kinh nghiệm". Theo chúng tôi, xét về bản chất hai khái niệm này vẫn được sử dụng như nhau, song giữa chúng có sự khác biệt. Khi ta dùng khái niệm "chủ nghĩa ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVA~1.DOC
  • docBIA.DOC
  • docMUCLUC~1.DOC
Tài liệu liên quan