Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN - Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của TAND thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là: "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [4, tr.2].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, các Toà án đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) là:
. Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,. để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. [2].
Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã “được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.1].
Bên cạnh đó, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân [2]; Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp,. còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử [4, tr.1].
Các TAQS là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức trong quân đội. Tuy thuộc hệ thống TAND nhưng các TAQS có những đặc thù về mặt tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội. Trong những năm qua, so với các TAND, số lượng các vụ án hình sự phải giải quyết theo thủ tục sơ thẩm không nhiều nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự (xét xử hình sự sơ thẩm) nói riêng của các TAQS cũng còn bộc lộ một số hạn chế và tồn tại nhất định.
Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi khoa học pháp lý cần đi sâu nghiên cứu và tìm ra lời giải đáp đối với hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật của các Tòa án nói chung và TAQS nói riêng.
98 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN - Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của TAND thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là: "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [4, tr.2].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, các Toà án đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) là:
... Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... [2].
Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã “được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.1].
Bên cạnh đó, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân [2]; Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp,... còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử [4, tr.1].
Các TAQS là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức trong quân đội. Tuy thuộc hệ thống TAND nhưng các TAQS có những đặc thù về mặt tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội. Trong những năm qua, so với các TAND, số lượng các vụ án hình sự phải giải quyết theo thủ tục sơ thẩm không nhiều nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự (xét xử hình sự sơ thẩm) nói riêng của các TAQS cũng còn bộc lộ một số hạn chế và tồn tại nhất định.
Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi khoa học pháp lý cần đi sâu nghiên cứu và tìm ra lời giải đáp đối với hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật của các Tòa án nói chung và TAQS nói riêng.
Tất cả những phân tích nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn vấn đề "Áp dụng phỏp luật trong xột xử hỡnh sự sơ thẩm của Tũa ỏn quõn sự cỏc cấp ở Việt Nam hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử đã được một số nhà khoa học, cán bộ thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học như sau:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân: "áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", năm 2004. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nhằm đáp ứng kịp thời mới của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta.
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: "áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình", năm 2004. Luận văn đã phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử hiện nay.
- Thạc sĩ Chu Thị Trang Vân với "Tìm hiểu một số nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2001, đã đi sâu phân tích các nguyên tắc cơ bản về áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
- Ngoài ra còn một số công trình khác nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, như:
"Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật" của GS.TSKH. Đào Trí úc, Nxb Khoa học xã hội, 1993.
"Đảm bảo công bằng xã hội trong tư pháp" - PGS.TS Chu Hồng Thanh, Tạp chí Dân chủ pháp luật số 21/2001.
"Tăng cường năng lực xét xử của Tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp bách" - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002 và "Nâng cao năng lực soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách", Tạp chí Dân chủ pháp luật số 4/2001 của TS. Nguyễn Văn Hiện.
Nhìn chung, các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung hoặc trong xét xử án hình sự của TAND ở một địa phương cụ thể, hoặc chỉ nghiên cứu một số vấn đề cụ thể có liên quan đến hoạt động xét xử và áp dụng pháp luật của Tòa án. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả ở góc độ lý luận chung cũng như thực tiễn về hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích: Luận văn nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
Về nhiệm vụ: Phù hợp mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử của TAQS các cấp ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004, rút ra những ưu điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể; ngoài ra còn sử dụng phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp trong thời gian qua, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và TAQS nói riêng; xây dựng tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội nói chung và các TAQS nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật
Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung có tên gọi và hiệu lực pháp lý khác nhau do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định.
Với tư cách là hệ thống các quy tắc xử sự chung và là nhân tố để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Nhà nước sử dụng các quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và các nhân viên nhà nước cũng được tiến hành trên cơ sở các quy định pháp luật. Các quy phạm pháp luật còn là cơ sở pháp lý để mọi người tôn trọng và thực thi các quyền tự do, dân chủ của công dân, đồng thời là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật từ phía Nhà nước, những người có chức vụ quyền hạn và các chủ thể khác.
Tuy nhiên, bản thân các quy phạm pháp luật không thể tự đi vào cuộc sống mà chỉ có thể trở thành hiện thực khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành được các cơ quan, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm minh và chính xác.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thực hiện pháp luật được xác định là “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [25, tr. 270]. Do các quy phạm pháp luật rất đa dạng, phong phú nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý phân thành các hình thức thực hiện pháp luật sau đây:
- Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật phải kiềm chế không thực hiện các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm.
- Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó có các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tích cực, chủ động thực hiện các quyền năng pháp lý của mình theo quy định của pháp luật.
- áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó thông qua các cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền, Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên, thì tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức thực hiện pháp luật phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện. Còn áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù và bao giờ cũng có sự tham gia của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước, những người có thẩm quyền. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, Nhà nước thực hiện quyền hạn, nghĩa vụ của mình hoặc tổ chức cho cá nhân hay các tổ chức thực hiện các yêu cầu của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật (ví dụ: Tòa án áp dụng pháp luật để ra một bản án xử phạt đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm).
- Khi các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không tự phát sinh cần có sự tác động của Nhà nước (ví dụ: Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 của nước ta thì "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật". Tuy nhiên, để thực hiện được quyền này, công dân phải có đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).
- Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ không thể tự giải quyết được với nhau (ví dụ: các bên tham gia hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự tranh chấp với nhau về quyền và nghĩa vụ).
- Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia vào quan hệ pháp luật để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của vụ việc, sự kiện thực tế (xác nhận di chúc, chứng thực văn bằng, chứng chỉ,...).
Tuy hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao với các hình thức rất đa dạng, phong phú nhưng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan này đều có một số đặc điểm chung sau đây:
- áp dụng pháp luật là một hoạt động tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Tính chất này thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật chỉ có thể do các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền tiến hành. Mỗi loại cơ quan nhà nước được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định trong phạm vi thẩm quyền của mình (ví dụ: trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội,..., thì việc áp dụng pháp luật do cơ quan, nhân viên nhà nước tiến hành theo thủ tục hành chính như: cấp giấy phép kinh doanh, khen thưởng, kỷ luật, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,... Trong lĩnh vực tư pháp, hoạt động áp dụng pháp luật (tiến hành các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử,...) được giao cho các cơ quan tư pháp và nhân viên tư pháp (những người có chức danh tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán,...). Trong một số trường hợp cá biệt, Nhà nước có thể giao quyền áp dụng pháp luật cho một số tổ chức xã hội (tuần tra nhân dân, thanh tra nhân dân,...).
Việc áp dụng pháp luật được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật hay chủ thể bị áp dụng pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các chủ thể có liên quan và trong trường hợp cần thiết nó được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế, các chế tài do pháp luật quy định.
- áp dụng pháp luật phải tiến hành theo các trình tự, thủ tục nhất định được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm minh. Việc quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ này nhằm bảo đảm cho việc ra áp dụng pháp luật được công bằng, khách quan và chính xác. Tính chất của trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật đơn giản hay phức tạp phụ thuộc vào tính chất, nội dung của sự việc cần giải quyết và mức độ nghiêm khắc của chế tài cần áp dụng. Ví dụ: Việc áp dụng các quy phạm pháp luật để xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì trình tự và thủ tục được quy định đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều so với việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội,... vì cần phải tiến hành các hoạt động tố tụng tỉ mỉ, chặt chẽ như điều tra xác minh, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, thủ tục phiên toà xét xử công khai, ra bản án,...
- áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính chất cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là các quan hệ xã hội cần có sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở các quy phạm pháp luật chung. Tính điều chỉnh cá biệt, cụ thể của áp dụng pháp luật được thể hiện ở chỗ kết quả của việc áp dụng pháp luật phải xác định một cách cụ thể, chính xác về sự kiện, con người, thời gian, không gian,... để làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể (đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định) và được áp dụng một lần. Ví dụ: Trong quyết định phải nêu rõ tình tiết vụ việc; điều khoản cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng; chủ thể phải thi hành; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,...
- áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Nó thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật là quá trình vận dụng cái chung (quy phạm pháp luật - quy tắc xử sự chung) để giải quyết một vụ việc cụ thể. Thực tiễn cho thấy pháp luật không bao giờ dự liệu được mọi tình huống, hoàn cảnh có thể xảy ra trong đời sống xã hội. Vì vậy, chủ thể áp dụng pháp luật phải xác định rõ nội dung vụ việc, làm sáng tỏ các dấu hiệu (cấu thành) pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Trong hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, chủ thể áp dụng pháp luật (các cơ quan và những người tiến hành tố tụng) phải thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ để xác định sự kiện thực tế đã xảy ra, đánh giá chính xác về mặt pháp lý đối với vụ việc đó và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp đối với trường hợp cụ thể đang giải quyết . Đây là một hoạt động tư duy sáng tạo của chủ thể áp dụng pháp luật. Nó đòi hỏi các chủ thể này không chỉ nắm vững các quy định pháp luật, tri thức tổng hợp mà còn phải có phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cao, kinh nghiệm phong phú và kỹ năng nghề nghiệp giỏi bảo đảm cho việc vận dụng quy định pháp luật chung để giải quyết vụ việc cụ thể cho phù hợp và chính xác.
Từ phân tích trên cho thấy áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, nhưng là hình thức pháp luật đặc thù. Đó là "hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước ủy quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể" [53, tr.474].
áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức năng tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thông qua hình thức này, các quy định pháp luật được đưa vào cuộc sống một cách triệt để và chính xác, ý chí nhà nước trở thành hiện thực nhằm đảm bảo cho bộ máy nhà nước, các tổ chức và mọi công dân hoạt động của trong khuôn khổ của pháp luật; bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có thể phân quá trình áp dụng pháp luật thành các giai đoạn sau đây:
- Phân tích, đánh giá những tình tiết khách quan của vụ việc và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó. Đây là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật. Để giải quyết vụ việc chính xác và đúng đắn chủ thể áp dụng pháp luật phải hiểu được bản chất của vụ việc, làm rõ tính chất pháp lý của nó, nắm vững các tình tiết và xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp cần thiết phải sử dụng những biện pháp chuyên môn để xác định độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu. Đây là cơ sở thực tế để áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác.
- Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng, phân tích làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật đó: Đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình áp dụng pháp luật. Sau khi đã xác định đầy đủ các dấu hiệu (đặc trưng) pháp lý của vụ việc đang xem xét, các cơ quan và những người có thẩm quyền phải lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó. Trước hết cần xác định vụ việc đó do ngành luật nào điều chỉnh? Sau đó cần xác định lựa văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật cụ thể nào điều chỉnh quan hệ pháp luật đó. Sau khi tìm được quy phạm pháp luật thích hợp, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phải nghiên cứu để hiểu chính xác nội dung của quy phạm đó. Đây là hoạt động tư duy của chủ thể áp dụng pháp luật trên cơ sở các phương pháp giải thích pháp luật như: phương pháp lôgíc, phương pháp giải thích về mặt văn phạm, phương pháp giải thích về mặt lịch sử, phương pháp giải thích hệ thống,... [25, tr.278]. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
+ Văn bản quy phạm pháp luật đã lựa chọn là văn bản chính thức và đang còn hiệu lực thi hành. Trong trường hợp có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh về một vấn đề, thì văn bản lựa chọn phải là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trường hợp cùng một vấn đề lại có hai văn bản cùng một cơ quan ban hành thì văn bản nào ban hành sau cùng là văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng.
+ Quy phạm pháp luật lựa chọn để áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực ở thời điểm xảy ra vụ việc đang xem xét giải quyết.
- Ra văn bản áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật phản ánh kết quả của các giai đoạn áp dụng pháp luật trước đó. ở giai đoạn này, các cơ quan và những người có thẩm quyền ra văn bản trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của bên tham gia quan hệ pháp luật, những biện pháp hay trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm. Văn bản áp dụng pháp luật thể hiện trình độ và năng lực của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Thông qua văn bản áp dụng pháp luật, những tình tiết của vụ việc được đánh giá chính thức về mặt pháp lý; các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật được cụ thể hóa trong từng trường hợp cụ thể.
Một yêu cầu đặt ra đối với việc ra văn bản áp dụng pháp luật là quyết định áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng với quy phạm pháp luật được áp dụng. Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng hình thức (tên gọi, hình thức thể hiện) và nội dung của văn bản phải rõ ràng, chính xác về vụ việc, chủ thể cụ thể và chỉ áp dụng một lần.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật bao gồm các hoạt động tổ chức nhằm đảm bảo về mặt kỹ thuật, vật chất để bảo đảm cho việc thực hiện văn bản áp dụng pháp luật được đầy đủ, đúng đắn và chính xác. Ngoài ra, cần phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm bảo đảm để quyết định áp dụng pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự
Xét xử là từ Hán Việt và được hiểu là sự xem xét và phân xử của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Toà án). ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp.
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức TAND thì ở nước ta "Tòa án Nhân dân tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 9 BLTTHS 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chỉ hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Theo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia.doc