Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (1986) đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao [6, tr.67].
Trong những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, với tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,9% đến năm 2007 tăng lên 8,3% [14], đời sống nhân dân được nâng cao, chính trị xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa được đề cao hơn bao giờ hết. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Trong cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi lẽ, các cơ quan tư pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong những năm qua, các cơ quan tư pháp luôn luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Có thể khẳng định rằng, quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Việt Nam luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Tại Đại hội IX, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Đồng thời, là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" [5, tr.90] là một trong những đòi hỏi bức xúc ở nước ta hiện nay.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật động bộ ngày 24 tháng 05 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các cơ quan tư pháp và các định chế bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc. Trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng nâng cao quyền hạn trách nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, chuyên môn; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử của công dân và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2002, nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự và được tiến hành theo một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, sai lầm trong bất cứ giai đoạn nào cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả chung của việc giải quyết vụ án.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các vụ án dân sự với tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi, do đó việc áp dụng pháp luật để giải quyết án dân sự của Tòa án hiện nay là một vấn đề được coi trọng. Việc áp dụng pháp luật thế nào cho đúng, chính xác và thấu tình đạt lý được dư luận xã hội quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc giải quyết các vụ dân sự còn nhiều bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội. Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án và Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm. Ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai trong những năm gần đây số lượng các vụ án dân sự ngày càng gia tăng, tính chất các vụ án rất phức tạp. Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai đã giải quyết những tranh chấp, những vụ kiện phát sinh trong đời sống của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự đã góp phần ổn định xã hội và cải thiện các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày tại cộng đồng dân cư, giữ gìn kỷ cương pháp luật, trật tự an toàn xã hội, đồng thời góp phần tằng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên toàn tỉnh Lào Cai nói chung và trên địa bàn Thành phố Lào Cai nói riêng.
Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự không chỉ đơn thuần đấu tranh đối với các hành vi trái pháp luật mà còn phổ biến, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, để người dân hiểu biết về pháp luật, chủ động tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật và tích cực trong việc tố giác các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời, thông qua việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án dân sự còn phát hiện ra những bất cập, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, điều chỉnh các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Bên cạnh đó, quá trình kiểm tra xét xử án phúc thẩm và giám đốc thẩm của Tòa án cấp trên trong những năm qua cho thấy, việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai còn nhiều bất cập dẫn đến nhiều vụ án bị hủy, sửa, tình trạng án tồn đọng chưa được giải quyết. Còn tồn tại nhiều vụ án bị kéo dài vượt quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và có nhiều vụ án áp dụng pháp luật chưa thật sự chuẩn xác, nghiêm minh đã dẫn đến việc bị sửa, hủy làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
98 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
¸p dông ph¸p luËt trong gi¶i quyÕt c¸c vô ¸n d©n sù cña tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè lµo cai - tØnh lµo cai
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
10
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
10
1.2. Các giai đoạn, nội dung và các yếu tố đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
22
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI (GIAI ĐOẠN 2004-2008)
46
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai
46
2.2. Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai
51
2.3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai
69
2.4. Một số giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai
73
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADPL : Áp dụng pháp luật
BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (1986) đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao [6, tr.67].
Trong những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, với tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,9% đến năm 2007 tăng lên 8,3% [14], đời sống nhân dân được nâng cao, chính trị xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa được đề cao hơn bao giờ hết. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Trong cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi lẽ, các cơ quan tư pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong những năm qua, các cơ quan tư pháp luôn luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Có thể khẳng định rằng, quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Việt Nam luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Tại Đại hội IX, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Đồng thời, là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" [5, tr.90] là một trong những đòi hỏi bức xúc ở nước ta hiện nay.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật động bộ ngày 24 tháng 05 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các cơ quan tư pháp và các định chế bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc. Trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng nâng cao quyền hạn trách nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, chuyên môn; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử của công dân và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2002, nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự và được tiến hành theo một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, sai lầm trong bất cứ giai đoạn nào cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả chung của việc giải quyết vụ án.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các vụ án dân sự với tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi, do đó việc áp dụng pháp luật để giải quyết án dân sự của Tòa án hiện nay là một vấn đề được coi trọng. Việc áp dụng pháp luật thế nào cho đúng, chính xác và thấu tình đạt lý được dư luận xã hội quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc giải quyết các vụ dân sự còn nhiều bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội. Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án và Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm. Ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai trong những năm gần đây số lượng các vụ án dân sự ngày càng gia tăng, tính chất các vụ án rất phức tạp. Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai đã giải quyết những tranh chấp, những vụ kiện phát sinh trong đời sống của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự đã góp phần ổn định xã hội và cải thiện các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày tại cộng đồng dân cư, giữ gìn kỷ cương pháp luật, trật tự an toàn xã hội, đồng thời góp phần tằng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên toàn tỉnh Lào Cai nói chung và trên địa bàn Thành phố Lào Cai nói riêng.
Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự không chỉ đơn thuần đấu tranh đối với các hành vi trái pháp luật mà còn phổ biến, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, để người dân hiểu biết về pháp luật, chủ động tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật và tích cực trong việc tố giác các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời, thông qua việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án dân sự còn phát hiện ra những bất cập, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, điều chỉnh các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Bên cạnh đó, quá trình kiểm tra xét xử án phúc thẩm và giám đốc thẩm của Tòa án cấp trên trong những năm qua cho thấy, việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai còn nhiều bất cập dẫn đến nhiều vụ án bị hủy, sửa, tình trạng án tồn đọng chưa được giải quyết. Còn tồn tại nhiều vụ án bị kéo dài vượt quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và có nhiều vụ án áp dụng pháp luật chưa thật sự chuẩn xác, nghiêm minh đã dẫn đến việc bị sửa, hủy làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Là một cán bộ của ngành tòa án, bản thân tôi mong muốn thông qua đề tài nghiên cứu của mình sẽ góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Vì lẽ đó, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của ngành Tòa án nói chung, Tòa án nhân Thành phố Lào Cai nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng cũng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý, nhất là những người làm công tác xét xử của nhành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập đến những vấn đề trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự như: TS Đặng Quang Phương (1999) “Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 7,8; Lê Thu Hà “Án dân sự bị kéo dài- vài nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/1997; Lê Thu Hà “Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/1999; Ngô Vĩnh Bạch Dương : "Vấn đề áp dụng hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự ở Việt Nam”- Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2001. Một số luận văn thạc sỹ Luật học của Ngô Thị Minh Ngọc (2000) “Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm”; Phạm Thị Dần (2000) “Điều tra trong tố tụng dân sự”; Chu Đức Thắng (2004) “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”; Hoàng Văn Hạnh (2006) Luận văn thạc sỹ Luật học “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân Tỉnh Thái Nguyên”; Ngô Minh Ngọc (2000) “ Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm”.
Như vậy cho đến nay chưa có một đề tài, công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn diện, có hệ thống về mảng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm nói chung và ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai nói riêng từ khi Bộ Luật tố tụng Dân sự 2004 và Bộ Luật Dân sự năm 2005 ra đời.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - tỉnh Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu xem xét tình hình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
+ Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai
+ Thông qua các số liệu báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai đánh giá thực trạng tình hình hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, Từ đó đề ra giải pháp mang tính hệ thống để nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách chính xác, công bằng, hiệu quả góp phần ổn định xã hội và mang lại cho nhân dân niềm tin vào pháp luật.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, các giai đoạn của áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
+ Đánh giá thực trạng của áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, những kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai.
+ Từ đó nêu lên các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác- Lê nin, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Lào Cai.
Trên cơ sở thực trạng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, nêu ra những điểm mới trong việc áp dụng pháp luật khi có bộ luật ra đời, đồng thời chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai và đề ra giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai nói riêng và hoạt động áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nói chung có hiệu quả, bảo vệ lợi ích hợp của nhân dân và đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức và cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho những cán bộ trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, cho các cán bộ đang trực tiếp làm công tác giải quyết án dân sự của Ngành Tòa án nhân dân nói chung và của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1.1. Một số vấn đề chung có liên quan
Để làm rõ khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện, thì cần thiết phải làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan sau đây:
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Ở bất cứ một hình thức nhà nước nào thì pháp luật luôn là một công cụ để đảm bảo cho một xã hội phát triển ổn định, khi đặt ra những quy phạm pháp luật, Nhà nước ta mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và sự tiến bộ xã hội. Mục đích đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người phù hợp với những quy định của pháp luật, thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật (QPPL) rất phong phú, do đó hình thức thực hiện cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hình thức thực hiện pháp luật.Mục đích của áp dụng pháp luật là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống xã hội. Trong thực tế đời sống xã hội thì áp dụng pháp luật được thể hiện rất rõ trong các trường hợp như: khi một chủ thể thực hiện hành vi phạm tội thì ngay sau đó trách nhiệm hình sự không phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt tương ứng mà cần có hoạt động của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật để xét xử, ra bản án trong đó ấn định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, hay khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật nhưng các chủ thể không tự mình giải quyết được, trong trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh nhưng quyền và nghĩa vụ giữa các bên không thực hiện được và có sự tranh chấp, thì áp dụng pháp luật sẽ được áp dụng khi các chủ thể yêu cầu cơ quan Tòa án giải quyết.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế như việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp…
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền áp dụng pháp luật khác nhau.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức- quyền lực nhà nước. Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: việc áp dụng pháp Luật Hình sự để giải quyết một vụ án hình sự phải tuân thủ Luật Tố tụng hình sự với những quy định chặt chẽ.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì, áp dụng pháp luật là quá trình vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để giải quyết các vụ việc cụ thể. Điều này đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải vận dụng cái chung cái phù hợp với cái riêng rất phong phú, đa dạng và phức tạp.
Từ sự phân tích trên, cơ thể đưa ra khái niệm: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực của nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự
Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự.
Đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ dân sự, đó là sự không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong cuộc sống thường là (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Trong vụ án dân sự đương sự ít nhất phải có hai bên nguyên đơn và bị đơn, một số trường hợp có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc có yêu cầu độc lập.
Để hiểu thêm về vụ án dân sự ta cần phân biệt những tranh chấp dân sự thuần túy theo nghĩa hẹp và tranh chấp kinh doanh thương mại được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này có thể bất cứ là cá nhân, cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội hàng ngày, khi các quan hệ đó không được thống nhất giải quyết theo thỏa thuận hoặc bất đồng trong việc giải quyết hậu quả của một quan hệ dân sự trong đời sống xã hội dẫn đến tranh chấp không giải quyết được và một trong hai bên yêu cầu Tòa án giải quyết. Mục đích tham gia các quan hệ dân sự của các chủ thể là tiêu dụng.
Còn trong tranh chấp kinh doanh thương mại; chủ thể là các thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Mục đích tham gia các quan hệ kinh doanh thương mại của các chủ thể là lợi nhuận, qua hoạt động kinh doanh các thương nhân thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản suất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong đời sống xã hội chứa đựng nhiều các quan hệ đa chiều, phức tạp, trong đó vấn đề quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy nhiên không phải chủ thể nào khi tham gia các quan hệ xã hội cũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc