Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tại cơ sở.
Nhận thức được điều này, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo cũng như việc nâng cao trình độ các mặt cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tuy vậy, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tổng kết vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta nhận định rằng, đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn. Sự yếu kém đó thể hiện rõ nhất ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu năng lực tư duy biện chứng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổng kết thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm bổ ích nhằm điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn trong các giai đoạn tiếp theo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian qua, điểm chủ yếu là một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau vẫn còn tiếp tục mắc phải những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức thực tiễn.
120 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thực tiễn. Chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là người giữ vai trò quan trọng, là cấp cuối cùng, trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân tại đơn vị cơ sở. Có thể nói, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt và phải giải quyết liên tục những vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo, quản lý tại cơ sở.
Nhận thức được điều này, Đảng ta có rất nhiều nghị quyết, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo cũng như việc nâng cao trình độ các mặt cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tuy vậy, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tổng kết vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta nhận định rằng, đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn. Sự yếu kém đó thể hiện rõ nhất ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu năng lực tư duy biện chứng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổng kết thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm bổ ích nhằm điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn trong các giai đoạn tiếp theo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian qua, điểm chủ yếu là một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau vẫn còn tiếp tục mắc phải những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu sự “Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau” là yêu cầu cấp thiết để nâng nhận thức lên tầm tư duy khoa học trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà các văn kiện, các nghị quyết của Đảng đã đề cập, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu vấn đề đổi mới tư duy, trong đó phải kể đến một số công trình có liên quan như:
- Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Tạp chí Triết học số 2/1998.
- Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo: Từ tư duy lý luận đến tư duy kinh nghiệm, Thông tin lý luận, số 6/1998.
- Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long: Chống bệnh kinh nghiệm giáo điều đổi mới tư duy lý luận, Tạp chí Cộng sản số 05/1988
- Tiến sĩ Thiều Quang Đồng: Lôgíc học với việc nâng cao trình độ tư duy lôgíc … “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007.
- Tiến sĩ Nguyễn Thị Nga: Vấn đề khắc phục sự lạc hậu của ý thức xã hội ở nước ta hiện nay, “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007…
Đến nay, tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư duy con người, nhưng việc nghiên cứu tư duy đặc thù của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng thì hầu như chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể. Do vậy, vấn đề nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức đối với cán bộ ta vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để góp phần cho các cấp lãnh đạo, quản lý nghiên cứu và tổ chức thực tiễn trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm và những ảnh hưởng của nó trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Cà Mau.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Phân tích làm rõ bản chất, biểu hiện và những nguyên nhân chủ yếu của tư duy kinh nghiệm; phân tích đánh giá thực trạng và nguyên nhân ảnh hưởng của nó, qua đó trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tư duy kinh nghiệm, nâng cao trình độ tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở ở Cà Mau nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu bản chất, biểu hiện và nguyên nhân chủ yếu mang tính đặc thù của tư duy kinh nghiệm ảnh hưởng đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn giới hạn việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn nhưng phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu đối với cấp xã gồm: Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân, Trưởng, phó các ngành của xã qua khảo sát thực tế tại tỉnh Cà Mau.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên lý nhận thức mác xít, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về tư tưởng lý luận, nhận thức, các văn kiện của Đảng bộ Cà Mau (tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn).
- Luận văn kế thừa và sử dụng một số kết quả công trình khoa học của tác giả đã nghiên cứu và được công bố trên các sách, báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử-lôgíc, điều tra, khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp cho lãnh đạo, quản lý nghiên cứu, tổ chức thực tiễn nhằm để khắc phục tư duy kinh nghiệm thiếu cơ sở khoa học và chỉ ra con đường biện chứng duy vật trong nhận thức, lãnh đạo hoạt động thực tiễn.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, các trường cao đẳng và đại học, về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước vững mạnh,…
7. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Lần đầu tiên, tác giả luận văn khái quát một số nét đặc thù của tư duy kinh nghiệm và sự ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau; chỉ ra tác hại của tư duy thiếu cơ sở khoa học, nâng cao năng lực tư duy biện chứng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau.
- Tìm ra nguyên nhân và đề ra một số giải pháp chủ yếu mang tính khả thi góp phần cùng Đảng bộ Cà Mau nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TƯ DUY CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỈNH CÀ MAU
1.1. TƯ DUY KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
1.1.1. Tư duy
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu tư duy ở góc độ khác nhau. Từ xa xưa, con người đã biết suy luận một cách tự nhiên, tự phát. Trong quá trình lao động sản xuất và trong hoạt động thực tiễn của mình, nhu cầu hiểu biết về thế giới khách quan, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, những hiểu biết của mình với người khác ngày một nâng cao. Chính trong quá trình đó đã dần dần tạo cho con người cách suy nghĩ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, tư duy là sản phẩm cao nhất của cái vật chất có tổ chức đặc biệt, đó là bộ não người. Quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan của tư duy được biểu hiện trong các khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh,... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, phát hiện ra những mối liên hệ bản chất của hiện thực. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ chế sinh lý học vật chất của tư duy được nghiên cứu trong sinh lý học hoạt động thần kinh cao cấp. Tuy nhiên, mặc dù không tách khỏi bộ não của con người nhưng tư duy vẫn không thể được giải thích một cách hoàn toàn bởi hoạt động của bộ máy sinh lý học. Bởi lẽ, tư duy gắn liền trước hết không phải với sự tiến hóa của sinh học mà còn gắn với sự phát triển của xã hội. Nó là sản phẩm của xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện, cả về phương thức hoạt động, cả về kết quả của nó. Sở dĩ như thế là vì, tư duy chỉ tồn tại trong một mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời nói; là hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người, là hoạt động mang tính tộc loại. Cho nên, tư duy của con người được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ nhất với lời nói và những kết quả của tư duy được ghi nhận trong ngôn ngữ.
Tiêu biểu cho tư duy là quá trình trừu tượng hóa, khái quát hóa, quá trình phân tích và tổng hợp, việc nêu lên vấn đề và tìm cách giải quyết chúng, việc đề xuất những giả thiết, những ý niệm, v.v... Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biểu hiện ở khả năng của con người có thể xây dựng khái niệm chung. Việc xây dựng khái niệm khoa học là gắn liền với sự trình bày những quy luật tương ứng. Khả năng phản ánh hiện thực một cách gián tiếp của tư duy được biểu hiện ở khả năng suy lý, kết luận logic, chứng minh,... của con người. Xuất phát từ chỗ phân tích các sự kiện có thể tri giác được một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể tri giác được nhờ các giác quan. Những khái niệm và hệ thống những khái niệm ghi lại kinh nghiệm của loài người là sự tập trung tri thức của con người và là điểm xuất phát để tiếp tục nhận thức thực tại. Chính vì vậy, mỗi ngày con người có thể nhận thức sâu rộng hơn về thế giới.
Tư duy, xét về bản chất là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan, bởi vì trong quá trình phản ánh, tư duy không sao chép nguyên xi sự vật mà biết phân loại sự vật, chính bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng trên cơ sở khái quát hóa, trừu tượng hóa, đem đến cho con người những tri thức về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng khách quan. Sự sáng tạo của tư duy còn thể hiện ở chỗ sự phản ánh không rập khuôn, giáo điều, máy móc và càng xa lạ với thái độ thụ động, ỷ lại, chủ quan duy ý chí, đó là khả năng nắm bắt được bản chất của sự vật, biết phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát từ thực tế sinh động của đời sống hiện thực để rút ra những kết luận khoa học. Nói như Các-Mác, sự sáng tạo đó thể hiện ở “cái vật chất di chuyển vào trong óc và cải biến đi” hay như cách nói của V.I. Lênin, đó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Với bản chất phản ánh sáng tạo, tư duy luôn vươn tới cái mới, cái tiến bộ giúp con người nhận thức thế giới khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [27, tr.489].
Khi đề cập tư duy, xem nó là vấn cốt lõi của lý luận nhận thức, cũng chính là để giải quyết, tìm ra phương pháp, cách thức đi đến nhận thức bản chất quy luật của các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Nếu không giải quyết một cách thấu đáo, có cơ sở khoa học thì việc lý giải nhận thức của con người chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu. Qua nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy, các nhà triết học trước Mác dù đứng trên quan điểm duy vật hay duy tâm, việc nghiên cứu tư duy của họ chỉ giới hạn ở việc xem xét nghiên cứu tư duy chủ yếu ở mặt nội dung của nó và họ thấy rằng tư duy chỉ là sự phản ánh thụ động thế giới bên ngoài vào óc con người, họ giới hạn ở việc chỉ ra tác động của khách thể đối với chủ thể, coi tư duy chỉ là kết quả của sự tác động đó. Tuy nhiên, họ cũng đã đề cập các dạng nhận thức ở các cấp độ khác nhau giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính và khẳng định được vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc là lý tính, tư duy, nhưng họ chưa giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quá trình nhận thức, từ nhận thức cảm tính đến lý tính, chưa thấy được bước chuyển hóa giữa hai quá trình này, chưa giải quyết một cách đúng đắn về nội dung, hình thức, phương pháp và vai trò, tác dụng của quá trình nhận thức… Do đó, các nhà triết học trước Mác chưa xây dựng được phương pháp luận khoa học cho quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ của chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người là thực tiễn” [26, tr.9]. Theo Mác, cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn - lịch sử - xã hội. Vậy, lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ thực tiễn hoạt động của con người trong đó, chính hoạt động lao động sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại, phát triển xã hội, là hoạt động cơ bản nhất và cũng chính hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành các loại quan điểm, tư tưởng, các quan hệ và các thiết chế xã hội khác nhau và cũng là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Nghĩa là, hoạt động sản xuất vật chất ngày càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng phát triển theo cùng với quá trình cải biến tự nhiên của con người. Bởi vì, trong quá trình tác động biến đổi hiện thực, con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, dùng những biện pháp, cách thức để tác động vào giới tự nhiên làm cho tự nhiên bộc lộ những đặc điểm, những quy luật, những thuộc tính của nó, qua đó con người nhận biết về chúng trên cơ sở những kinh nghiệm được tích lũy dần dần trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đây là cơ sở cho quá trình nhận thức. Bằng cảm giác, bằng các giác quan của mình dần dần hình thành nên tri thức, biểu tượng về sự vật được tái hiện trong đầu một cách khái quát và dựa trên tài liệu mà nhận thức cảm tính đem lại, trải qua quá trình phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… mà xây dựng các khái niệm, phạm trù, vạch ra bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gắn với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ… và phải trải qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hai giai đoạn này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy chúng có khác nhau về vị trí, mức độ, phạm vi phản ánh, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng phản ánh và chỉ có thể đạt được sự nhận thức khi nó vạch ra mối liên hệ bản chất, tất yếu, vạch ra quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [27, tr.720].
Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức và trên cơ sở thực tiễn các nhà kinh điển duy vật mác-xít đã luận giải một cách khoa học về quá trình nhận thức cũng như sự hình thành tư duy của con người, đồng thời V.I. Lênin cũng đã cảnh báo về khả năng nguy cơ sai lầm khi tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào của quá trình nhận thức. Bởi vì, nhận thức là một quá trình mang tính lịch sử - cụ thể, những tri thức mà con người đạt được ở mỗi giai đoạn nhất định là nấc thang, con đường vô tận mà con người luôn vươn tới để phản ánh. Do đó, nó không phải là cái gì cứng nhắc mà hết sức sống động biến đổi, phát triển trước sự đa dạng muôn vẽ của thực tại khách quan.
Ở những trình độ khác nhau, điều kiện lịch sử khác nhau thì tư duy, vốn tri thức của con người cũng không giống nhau, tuy nhiên nó vẫn có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan. Sự xâm nhập trí tuệ con người vào thế giới khách quan đi từ cảm tính đến lý tính, từ kinh nghiệm đến lý luận, đó là sự phản ánh hiện thưc ở cấp độ bản chất, quy luật, cái bên trong, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Vì thế, nó gắn liền với tư duy trừu tượng là khái quát cao của nhận thức, nhưng lý luận không phải là kết quả của sự trừu tượng thuần túy mà lý luận xét ở góc độ nhất định là kết quả của sự khái quát từ kinh nghiệm cảm tính.
Nói về quá trình nhận thức của con người, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” [18, tr.179]. Đây là quá trình diễn ra rất phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu khác nhau, song đây là con đường biện chứng của nhận thức chân lý.
Tư duy, giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức là sự khái quát những cảm giác, tri giác và phản ánh hiện thực khách quan thông qua những biểu tượng, khái niệm, phạm trù, là năng lực của bộ óc người, vì thế, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính, và nếu dừng lại ở tri giác, cảm giác thì không thể nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật. Vậy về bản chất, tư duy là sự vận động tất yếu của quá trình nhận thức, là sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, gắn liền với hoạt động sản xuất xã hội và ngôn ngữ, phản ánh một cách tích cực sáng tạo thế giới khách quan trong các khái niệm, phạm trù, quy luật là trình độ cao của quá trình nhận thức.
Quy luật của tư duy là sự phản ánh khái quát các quy luật của thực tại khách quan một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại, đem lại nhận thức mới và định hướng, chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy phản ánh tồn tại, do tồn tại quy định, song tư duy có tính năng động, sáng tạo, có tính độc lập tương đối so với tồn tại. Điều đó được hiểu theo hai nghĩa:
Một là, cái phản ánh và cái được phản ánh không bao giờ trùng khít hoàn toàn.
Hai là, quá trình tư duy còn có những quy luật riêng có của nó. Sự chuyển hóa từ tư duy kinh nghiệm lên tư duy lý luận, từ tư duy thông thường lên tư duy khoa học, từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại, từ đơn nhất đến đặc thù, phổ biến và ngược lại, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp thấp đến bản chất cấp cao. Đây là quá trình lịch sử của tư duy và quá trình phát triển của tư duy đang nhận thức. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau của tư duy biện chứng. Ph.Ăngghen viết:
Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng nhất quán về lý luận, nó là sự phản ánh uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới hình thức cổ điển của nó [28, tr.614-615].
Tư duy cũng như mọi hoạt động có ý thức của con người, bao giờ cũng có sự tham gia của nhiều yếu tố tâm lý xã hội khác nhau như lòng tin, ý chí, trình độ nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử… nếu không dựa trên cơ sở tư duy khoa học đúng đắn thì sẽ làm cho hoạt động của con người thiếu sự chứng minh, thiếu phê phán, phân tích sự vật sẽ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn, không giúp con người có định hướng đúng đắn.
Chúng ta biết rằng, tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo và quy luật hoạt động của tư duy luôn vươn tới những nhận thức mới, nắm bắt cái mới, định hướng cho nhận thức hoạt động thực tiễn của con người. Vì thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức và tư duy do động lực của hiện thực khách quan chi phối và quy định. Cho nên, khi còn ở trình độ thấp (nhận thức cảm tính) thì động lực của tư duy chỉ đáp ứng ở mức độ theo trình độ nhận thức đó. Khi hoạt động thực tiễn của con người ngày càng đi sâu vào khám phá, nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì phương pháp và cách thức của tư duy cũng được nâng lên ở trình độ cao hơn (nhận thức lý tính). Vì thế, tư duy của con người không phải là bất biến mà nó có quá trình hình thành và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Nghĩa là nó cũng có quá trình hình thành, biến đổi và phát triển để đạt đến trình độ ngày càng cao hơn. Ph.Ăngghen khẳng định, “tư duy, trí tuệ của con người phát triển song song với trình độ cải biến quá trình tự nhiên” [1, tr.357].
Như vậy, tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, là sản phẩm của lịch sử và mục đích của tư duy là hướng tới phục vụ cho thực tiễn. Do đó, tư duy không những là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức mà trong mọi hoạt động của con người đều phải dựa trên cơ sở của tư duy và tùy thuộc vào trình độ năng lực và kết quả nhận thức của chủ thể.
1.1.2. Tư duy kinh nghiệm
- Khái niệm:
Như đã phân tích các khía cạnh về tư duy, trình độ của tư duy được xem xét ở các cấp độ khác nhau như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm có phương pháp và chức năng khác với tư duy lý luận. Đối tượng nghiên cứu của tư duy kinh nghiệm là những khách thể tồn tại trong không gian và thời gian với sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái đặc thù và cái phổ biến.
Tuy vậy, trong lịch sử triết học, có rất nhiều nhà triết học xem xét tư duy kinh nghiệm ở nhiều góc độ khác nhau. Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài, nhưng tự bản thân nó, kinh nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết, mà chỉ nắm lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc phục tính chất trực quan trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra.
Như vậy, kinh nghiệm được hiểu là sự tác động qua lại của các chủ thể xã hội với thế giới bên ngoài, vừa được hiểu là kết quả của sự tác động đó. Hay “kinh nghiệm được dùng để chỉ sự hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được là nhờ tiếp xúc; từng trải thực tế” [4, tr.948].
Xét về mặt lịch sử, nội dung của kinh nghiệm luôn có tính lịch sử - cụ thể. Kinh nghiệm là cái riêng, nếu so với lý luận là cái chung. Kinh nghiệm cũng phản ánh trình độ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ở một giai đoạn thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy, theo quan điểm của triết học mácxit, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện thực khách quan. Về phương diện nhận thức luận, kinh nghiệm là tính thứ hai, hiện thực khách quan là tính thứ nhất. Về hình thức, kinh nghiệm là cái thuộc về chủ quan là hình thức của ý thức, của tư duy. Về nội dung, kinh nghiệm mang nội dung khách quan, vì nó phản ánh thế giới khách quan. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan và quá trình hình thành tri thức về hiện thực khách quan trong bộ não người nhờ có nhận thức. Vì vậy, tri thức là kết quả của quá trình nhận thức, không phải giản đơn, thụ động, máy móc mà là một quá trình biện chứng, chủ động, tích cực, sáng tạo để có thể rút ra những kết luận ngày càng chính xác, tiếp cận ngày càng gần hơn chân lý khách quan. Kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn con người, nó được khái quát hóa, trừu tượng hóa thành lý luận. Lý luận là cấp độ phát triển cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan từ h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- mục lục.doc