Tôn giáo là một vấn đề xã hội khách quan, luôn gắn liền với đời sống chính trị, văn hóa, là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Từ khi tôn giáo ra đời cho đến nay, nó đã tác động, chi phối đời sống con người trên nhiều lĩnh vực. Có lúc, có nơi tôn giáo đã đóng vai trò chính trong một nước, một khu vực nhất định.
Ngày nay, vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo thu hẹp dần trong đời sống là xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội. Nhưng cũng có tình hình ngược lại ở một số nơi trên thế giới tôn giáo có xu hướng phục hồi và phát triển mạnh hơn, trong đó có Việt Nam.
Các cuộc xung đột sắc tộc, âm mưu lật đổ, các nhóm khủng bố quốc tế. trong đời sống hiện tại ít nhiều đều có liên quan đến tôn giáo. Vấn đề dân tộc và tôn giáo ngày nay ở nhiều nơi là ngòi nổ của các mâu thuẫn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã gây nên những xáo trộn lớn cho các quốc gia dân tộc, nhất là các quốc gia ở thế giới thế ba.
Kon Tum là một tỉnh miền núi, biên giới thuộc Tây Nguyên, là địa bàn chiến lược của cả nước. Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống và nhiều tôn giáo đang tồn tại. Trong những năm trở lại gây, hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Sự phát triển không bình thường của đạo Tin Lành ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sự phục hồi của đạo Công giáo với sự trở lại của các tín đồ trước đây đã khô đạo đang thu hút thêm nhiều tín đồ mới. Ngay cả những vùng trước đây là căn cứ cách mạng, đồng bào một lòng một dạ theo Đảng, theo kháng chiến đến ngày thắng lợi cuối cùng, thì nay tôn giáo cũng đã xâm nhập, cắm rễ vào.
Riêng đạo Công giáo đã có mặt ở Kon Tum trên 150 năm nay. Chừng ấy thời gian tồn tại, chung sống với các dân tộc ở đây, đạo Công giáo hẳn nhiên đã in dấu ấn vào đời sống của họ không ít. Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với các dân tộc được nhìn nhận như một tác động kép vừa tích cực vừa tiêu cực. Khai thác, phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, như tinh thần Chỉ thị 37 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu: "phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc và đời sống xã hội, thực hiện tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết hòa hợp các tôn giáo cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Dân tộc Bana có dân số đông và số lượng tín đồ theo đạo Công giáo tính theo tỷ lệ là nhiều nhất ở Kon Tum. Khi đạo Công giáo xâm nhập vào Kon Tum cũng là vào dân tộc này trước tiên.
83 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một vấn đề xã hội khách quan, luôn gắn liền với đời sống chính trị, văn hóa, là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Từ khi tôn giáo ra đời cho đến nay, nó đã tác động, chi phối đời sống con người trên nhiều lĩnh vực. Có lúc, có nơi tôn giáo đã đóng vai trò chính trong một nước, một khu vực nhất định.
Ngày nay, vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo thu hẹp dần trong đời sống là xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội. Nhưng cũng có tình hình ngược lại ở một số nơi trên thế giới tôn giáo có xu hướng phục hồi và phát triển mạnh hơn, trong đó có Việt Nam.
Các cuộc xung đột sắc tộc, âm mưu lật đổ, các nhóm khủng bố quốc tế... trong đời sống hiện tại ít nhiều đều có liên quan đến tôn giáo. Vấn đề dân tộc và tôn giáo ngày nay ở nhiều nơi là ngòi nổ của các mâu thuẫn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã gây nên những xáo trộn lớn cho các quốc gia dân tộc, nhất là các quốc gia ở thế giới thế ba.
Kon Tum là một tỉnh miền núi, biên giới thuộc Tây Nguyên, là địa bàn chiến lược của cả nước. Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống và nhiều tôn giáo đang tồn tại. Trong những năm trở lại gây, hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Sự phát triển không bình thường của đạo Tin Lành ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sự phục hồi của đạo Công giáo với sự trở lại của các tín đồ trước đây đã khô đạo đang thu hút thêm nhiều tín đồ mới. Ngay cả những vùng trước đây là căn cứ cách mạng, đồng bào một lòng một dạ theo Đảng, theo kháng chiến đến ngày thắng lợi cuối cùng, thì nay tôn giáo cũng đã xâm nhập, cắm rễ vào.
Riêng đạo Công giáo đã có mặt ở Kon Tum trên 150 năm nay. Chừng ấy thời gian tồn tại, chung sống với các dân tộc ở đây, đạo Công giáo hẳn nhiên đã in dấu ấn vào đời sống của họ không ít. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với các dân tộc được nhìn nhận như một tác động kép vừa tích cực vừa tiêu cực. Khai thác, phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, như tinh thần Chỉ thị 37 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu: "phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc và đời sống xã hội, thực hiện tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết hòa hợp các tôn giáo cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Dân tộc Bana có dân số đông và số lượng tín đồ theo đạo Công giáo tính theo tỷ lệ là nhiều nhất ở Kon Tum. Khi đạo Công giáo xâm nhập vào Kon Tum cũng là vào dân tộc này trước tiên.
Với các lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Ảnh hưởng của đạo Cụng giỏo đối với đồng bào dõn tộc Bana tỉnh Kon Tum " làm đề tài luận văn, hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của đạo Công giáo đối với đồng bào Bana tỉnh Kon Tum hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Nói về ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội đã có nhiều công trình khoa học, nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào đề cập một cách hệ thống và cụ thể về ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với một dân tộc như là dân tộc Bana ở Tây Nguyên. Công trình "ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay" do PGS. Nguyễn Tài Thư chủ biên, có một phần nói về: Cơ sở tồn tại và ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng được giới khoa học quan tâm từ lâu. Những tư liệu trong các sách sử biên niên của những thế kỷ XVI, XVII, XVIII được Lê Quý Đôn tổng kết lại trong cuốn sách nổi tiếng "Phủ Biên Tạp Lục". Các tác giả phương Tây nói đến Tây Nguyên và Kon Tum bắt đầu từ thế kỷ XVII của các Thừa sai và các quan lại cai trị. Những tác phẩm đó nhằm tìm hiểu khái quát tình hình các dân tộc bản địa, đặc biệt chú ý đến các mặt phong tục tập quán, tôn giáo và phản ánh đời sống cư dân đương thời.
Từ năm 1975, các tác phẩm đề cập đến Tây Nguyên và Kon Tum mới có hệ thống, khối lượng các tác phẩm tăng nhanh được đăng tải trên các tạp chí và in ấn, trong đó có hai tác phẩm có tính khái quát và đi sâu vào từng dân tộc là "Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum" của Đặng Nghiêm Vạn chủ biên và cuốn "Các dân tộc ít người ở Việt Nam - các tỉnh phía Nam" của Viện Dân tộc học.
Ngoài ra, còn một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, các luận văn cử nhân, thạc sĩ viết về tôn giáo cũng chỉ mới nêu lên tình hình tôn giáo nói chung và tập trung ở chính sách tôn giáo, quản lý tôn giáo của chính quyền. Đề tài này là một trong những hướng đi vào nghiên cứu một tôn giáo cụ thể với một dân tộc cụ thể, ở một địa bàn có nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của đạo Công giáo trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội đối với đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng bào dân tộc Bana trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Một là, nghiên cứu, khảo sát làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đồng bào Bana ở Kon Tum hiện nay.
- Hai là, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy và khắc phục ảnh hưởng của đạo Công giáo với đồng bào Bana ở Kon Tum hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đồng bào dân tộc Bana ở tỉnh Kon Tum hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý lý luận của của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tôn giáo và mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.
Kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu. Đề tài kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích - tổng hợp trong quá trình nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Từ mục đích, nhiệm vụ trên, luận văn góp phần làm rõ thêm vấn đề tôn giáo đi vào đời sống đồng bào các dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa Tây Nguyên có đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội còn thấp kém đã bị ảnh hưởng như thế nào, khắc phục những ảnh hưởng đó, vấn đề gì cần quan tâm. Đồng thời nêu ra một số phương hướng giải pháp để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo Công giáo đối với đồng bào Bana tỉnh Kon Tum.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đánh giá đúng thực chất quá trình xâm nhập và hoạt động của đạo Công giáo cùng với những ảnh hưởng của nó đối với đồng bào Bana ở Tây Nguyên. Thông qua việc khắc phục những ảnh hưởng đó nhằm xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hòa hợp các tôn giáo, các dân tộc vì mục tiêu chung của đất nước. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương; các nghiên cứu và giảng dạy ở trường của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
đạo Công giáo và dân tộc bana ở Kon Tum
1.1. Khái quát về dân tộc Bana
1.1.1. Những đặc điểm chủ yếu về dân tộc Bana
Kon Tum là tỉnh nằm ở cực Bắc Tây Nguyên. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Tây giáp với Lào và Đông Bắc Campuchia.
Tỉnh Kon Tum có diện tích 9.661 km2, chia thành 7 đơn vị hành chính cấp huyện thị, trong đó Thị xã Kon Tum có 424,9 km2; Đăkglei có 1.532,5 km2; ĐăkTô có 1.377,4 km2; Đăk Hà 843,6 km2; Konplong 2.248,2 km2; Ngọc Hồi có 823,9 km2; Sa Thầy có 2.441,9 km2 [6, tr. 18].
Với vị trí ngã ba đường của Đông Dương, nên từ lâu đã có nhiều dân tộc đến định cư sinh sống và quá trình này vẫn còn đang tiếp diễn. Hiện trong tỉnh có các thành phần dân tộc chính gồm Xê Đăng, Bana, Gia Rai, Giẻ Triêng, Brâu và Rơ Mâm cùng nhóm các thành phần dân tộc phía Bắc di cư vào từ trước và sau năm 1975.
Các dân tộc Xê Đăng, Bana, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm là các dân tộc bản địa chiếm tỷ lệ trên 50% dân số toàn tỉnh (dân số toàn tỉnh là 285.782 người) [6, tr. 35].
Dân tộc
Số người (người)
Tỷ lệ % so với dân số toàn tỉnh
Xê Đăng
70.518
24,32
Bana
32.356
11,16
Giẻ Triêng
23.507
8,11
Gia Rai
14.779
5,10
Brâu
253
0,08
Rơ Mâm
299
0,10
Sự phân chia khu vực cư trú của mỗi dân tộc mang tính chất tương đối theo địa giới hành chính. Thực tế các dân tộc sống đan xen là khá phổ biến. Tuy rằng, mỗi dân tộc sống độc lập trên một lãnh thổ nhất định nhưng nhìn trên tổng thể xu hướng đan xen ngày càng chiếm ưu thế và cũng hợp với nhu cầu phát triển đất nước hiện nay.
Về dân tộc Bana, là một dân tộc lớn nhất nói tiếng Môn-Khơ me ở Miền Nam Trung Bộ. Cho đến nay chưa có một tư liệu chính xác về những chuyển cư ban đầu của dân tộc Bana, có giả thuyết cho rằng xưa kia có thể họ định cư ở đồng bằng vùng ven biển Bình Định, Phú Yên nhưng sau đó họ bị đẩy dần về phía Tây. Còn trên thực tế, có thể xem người Bana là một trong những cư dân sinh sống lâu đời nhất ở Cao Nguyên [44, tr. 106]. Người Bana có các nhóm địa phương mang tên gọi khác nhau như: GiơLar, Tô lô, Giơ lăng (y lăng), Rơ ngao, Krem, Roh, Konkclê, Alacông, Kpăng công, Bơnâm, và phân bố trên một diện rộng bao gồm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum. Riêng ở Kon Tum, dân tộc Bana chiếm số lượng dân cư đông thứ hai sau dân tộc Xê Đăng, cư trú tập trung phần lớn ở Đông Nam thị xã Kon Tum và một phần ít hơn ở Tây Huyện Konplong và Nam huyện Đắk Hà [6, tr. 35].
Sau đây là những đặc điểm chủ yếu của dân tộc Bana ở Kon Tum.
- Những hoạt động kinh tế
+ Trồng trọt là thành tố cơ bản của sản xuất nông nghiệp, là nơi cung cấp sản phẩm chủ yếu và thường xuyên nuôi sống con người. Trồng trọt gắn với các hình thức sản xuất khác nhau như canh tác nương rẫy, làm ruộng nước, ruộng khô, làm vườn... nhưng canh tác nương rẫy chiếm vị trí hàng đầu, là nguồn sinh sống chủ yếu của đồng bào.
Canh tác nương rẫy phổ biến của người Bana là phát-đốt-chọc-tỉa. Cho mãi đến nay cách thức này họ vẫn còn duy trì ở nhiều nơi. Công cụ canh tác chủ yếu là dao, rựa, rìu để chặt phát rẫy, cuốc, niếc để dọn nạo cỏ, gậy vót nhọn hoặc bịt nhọn bằng sắt để tra hạt. Rẫy chọn canh tác là những khu đất rừng già vì ở đây đất xốp và tốt. Rẫy được canh tác một thời gian lại bỏ hoang, rồi sau đó quay lại canh tác theo lối luân canh.
Đồng bào thực hiện canh tác nương rẫy theo một chu kỳ khép kín, quy trình sản xuất được bắt đầu bằng việc đốt cây, phát cỏ, khai hoang mặt bằng đốt và dọn sạch. Khi mưa đầu mùa xuất hiện là bắt đầu thời vụ gieo trồng. Sau khi gieo hạt, điều quan trọng bậc nhất trong quá trình chăm sóc là làm cỏ, vì mùa mưa cỏ dại sinh trưởng nhanh, bỏ qua khâu làm cỏ là đồng nghĩa với sự mất mùa. Cây trồng trên nương rẫy có nhiều loại, nhưng chính yếu nhất vẫn là cây lúa. Do kỹ thuật canh tác nương rẫy còn đơn giản thô sơ, phần lớn lệ thuộc vào thiên nhiên nên năng suất thấp [6, tr. 48].
Canh tác ruộng nước: Cách đây hơn một thế kỷ, kỹ thuật canh tác ruộng nước hầu như xa lạ với tập quán sản xuất của đồng bào Bana. Thực sự, đồng bào biết đến kỹ thuật canh tác lúa nước là khi người Kinh lên khai phá vùng thung lũng rộng lớn ở hai bên bờ sông Đălbla của Kon Tum. Khi đó, đồng bào dân tộc ở đây mới biết đến cày bừa bằng trâu, bò, bón phân chăm sóc. Ngày nay, ở vùng dân tộc Bana đã biết làm lúa nước 2 vụ, tuy kỹ thuật canh tác chưa thật nhuần nhuyễn nhưng so với canh tác lúa rẫy thì năng suất cao hơn, nguy cơ bị mất mùa ít hơn.
+ Chăn nuôi trong đời sống đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung và dân tộc Bana nói riêng, trước đây chưa phải là nhu cầu giải quyết về thịt mà trước hết chăn nuôi nhằm mục đích phục vụ cho việc cúng tế và sau đó mới làm vật trao đổi ngang giá. Vật nuôi, đối với trâu, bò thường thả rông trong rừng tự kiếm sống và sinh sản, khi nào cần chủ vào rừng tìm bắt. Đối với các loại như lợn, gà, dê, vịt... theo lối nửa chăn dắt, nửa thả rông. Hiện nay, ở một số làng do sống định canh, định cư lâu dài, đồng bào đã cải tiến cách thức chăn nuôi theo lối hiện đại dần với người Kinh, sản phẩm làm ra được đem trao đổi, mua bán trên thị trường. Tiếp thu các giống con mới nên năng suất vật nuôi tăng lên nhiều.
+ Các nghề thủ công gia đình: để có công cụ cho việc sản xuất, săn bắn trong các nghề phụ gia đình, nghề rèn đã phát triển đáng kể. Do tính chất quan trọng của sản phẩm làm ra, người thợ rèn Bana có rất nhiều kiêng cữ trong các công đoạn sản xuất.
Nghề dệt hầu như phổ biến trong các gia đình có phụ nữ. Mỗi gia đình tự trồng lấy bông để dệt, công cụ dệt còn thô sơ, mang nhiều nét gần gũi với nghề đan lát, đồng bào chưa biết sử dụng cửi và con thoi để dệt vải. Do kỹ thuật còn thô sơ nên vải dệt thường chậm, sản phẩm làm ra chỉ để dùng trong gia đình, ai khéo dệt có dư mới đem trao đổi lấy các loại hàng hóa khác.
Đan lát là công việc của đàn ông, đàn ông phải biết đan lát cũng giống như phụ nữ phải biết dệt vải vậy. Rừng là nguồn cung cấp nguyên liệu vô tận cho họ. Với bàn tay khéo léo, họ đã tạo nên những vật dụng vừa phục vụ cho cuộc sống, vừa thể hiện tính thẩm mỹ qua mỗi sản phẩm với dạng thức hoa văn rất phong phú, đa dạng.
Ngoài ra, người đàn ông Bana còn biết đan chiếu bằng lá Pmắt, Mơnal, là giống lá dừa nhưng dài đến 2-3m trong rừng. Lá xẻ thành năm sáu dây đem lên phơi khô năm đến sáu ngày rồi phơi sương hay ngâm nước cho mềm để đan những chiếc chiếu (SKooc) khổ 1,20-1,60 mét [44, tr. 119].
+ Kinh tế khai thác tự nhiên, chiếm đoạt từ tự nhiên không còn là bộ phận kinh tế chủ yếu, nhưng vẫn còn có vai trò khá quan trọng trong đời sống người dân gần rừng. ở vùng dân tộc Bana, chuyện mất mùa xảy ra thường xuyên, ngay cả những năm được mùa ý thức cất trữ phòng cơ không được chú ý đúng mức cũng có lý do của nó vì rừng có thể nuôi sống họ. Lúc được mùa rừng cũng đem lại cho họ nhiều thứ: rau, nấm, măng. Thịt săn ở rừng đôi khi là nguồn protein chủ yếu trong các bữa ăn. Rừng còn cung cấp cây gỗ cho việc làm nhà và các nghề thủ công. Ngày nay, rừng đang bị đe dọa, động thực vật nghèo đi rất nhiều, nhưng kinh tế sản xuất vẫn chưa thay thế và đáp ứng được hoàn toàn nhu cầu của cuộc sống.
- Tổ chức và quan hệ xã hội
Đơn vị xã hội duy nhất ở vùng đồng bào dân tộc Bana là làng (Plây). Người Bana gọi làng là "Kon" và tiếp sau là tên của một địa danh như Kon Tum, Kon Kơ Xâm, Kon Rbang... Trước hết làng là một khối cộng đồng thống nhất, bền chặt, những người sống trong làng phần lớn là người đồng chủng, cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định, được quy định một ranh giới không cụ thể, thường lấy các con sông, quả núi, khu rừng hoang làm ranh giới phân định giữa hai làng. Trong một làng quan hệ giữa các thành viên là bình đẳng, tôn trọng quyền sở hữu, sở thích của mỗi người, đặc biệt quan tâm hỗ trợ nhau trong cuộc sống, không phân biệt giữa người cùng họ hay khác họ. Mối quan hệ này được củng cố bởi các luật tục, lễ nghi tôn giáo và vai trò của người chủ làng.
Người chủ làng có vai trò đặc biệt trong đời sống cộng đồng. Ông cùng với hội đồng già làng điều hành và quyết định tất cả những việc lớn nhỏ trong làng và chịu trách nhiệm trước cộng đồng. Do vậy, chủ làng được chọn thường là những người cao tuổi, giàu có, có uy tín, có kinh nghiệm và am hiểu phong tục. Người Bana tin rằng, chủ làng là do thần thánh thừa nhận, hướng dẫn dân làng sẽ có nhiều điều tốt đẹp. Một khi công việc đã được bàn bạc đi đến quyết định thì cả làng tự giác hoàn thành dưới sự điều khiển của già làng. Ngoài ra, nhiều nơi có thêm một thủ lĩnh quân sự trông nom việc chiến đấu và phòng thủ; Bơ đâu (thầy cúng), lo việc xử kiện và thực hành các nghi thức tôn giáo có liên quan đến xóm làng.
Trước thế kỷ XX, trong cộng đồng người Bana chưa có sự phân chia giai cấp. Trong làng có người giàu (mđrông), người nghèo (đmú, đmé). Những người giàu thường là những chủ gia đình đông người, có nhiều lao động, khai phá được nhiều ruộng nương. Họ giàu có còn do có tiền lấy được nhiều vợ, nhiều con cái nên có nhiều lao động hay thuê người làm mướn (đăm), có nhiều người đem thân gán nợ cho họ (đích). Người giàu thường được đo bằng số chiêng, ché quý trong nhà, đàn trâu ngoài chuồng, số đích, đăm đến ở. Những người nghèo trong xã hội Bana cũng không nhiều, thường thuộc những gia đình ít lao động, con nhỏ, mồ côi, tàn tật, già nua không có nơi nương tựa [44, tr. 135].
- Tôn giáo, tín ngưỡng
Trước kia, giống như nhiều dân tộc, người Bana cho rằng cuộc sống hàng ngày của họ bị chi phối bởi những lực lượng siêu nhiên. Từ việc ốm đau, bệnh tật đến việc sản xuất đều không phải tự thân mà do thần linh, ma quỷ quyết định.
ở người Bana, khái niệm thần đã rõ rệt, gọi thần linh bằng danh từ tập hợp là Giàng, nhưng thường ngày người ta gọi một cách cung kính là ông (bốc) và bà (dạ). Bốc kơi đơi và Dạ cung ké được xem như hai vị thần tối cao sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài. Thế giới thần linh của người Bana vô cùng đa dạng và phong phú, thần linh có mặt ở nhiều nơi và chi phối mọi mặt đời sống con người. Mỗi vị thần đảm nhiệm một chức năng nhưng có ảnh hưởng nhiều nhất là các vị thần: Giàng Xri (thần lúa), ẩn mình trong con nhện hay con cóc ở nương rẫy, đồng ruộng, nhà kho chuyên ban phát thóc lúa cho con người; Giàng Đắc (thần nước); thần sấm sét (BốcGlái); thần giữ cho mưa thuận gió hòa.
Thật ra, trừ một số thần có có tên tuổi hẳn hoi, người Bana chỉ quan niệm có những vị thần chung chung cư trú ở khắp nơi thường hóa thân vào các con vật, cây cối. Do hình dạng kỳ dị hay vì sức mạnh thần bí dễ sợ, do tình cờ tiếp xúc nhiều lần mà các thần thường mang họa hay ban ơn cho họ. Cho nên, họ buộc phải vị nể, cầu xin, cúng lễ [44, tr. 150].
Ngoài thế giới thần, người Bana còn tin có tinh linh trong mỗi con người đang sống (giống như "hồn, vía" ở người Kinh). Khi chết đi, hồn biến hóa thành ma, ma người chết bình thường không làm hại người. Ma chỉ đòi hỏi, vòi vĩnh người thân khi không được chăm sóc tử tế. Nguy hiểm cho người ta là những vong hồn chết không bình thường, lang thang đây đó hay làm hại người. Người ta có thể ngăn cản chúng bằng cách chôn xa làng hoặc nhờ pháp thuật của bọn Bơ đâu. Người Bana cũng quan niệm có một thế giới riêng của những người chết, sau lễ bỏ mả, ma đi đến ở cùng với tổ tiên. Vì thế ma không làm hại người, chịu yên bề với đời sống của mình.
Mỗi người lại có vía, coi vía với hồn như hơi thở với thể xác. Vía có người mạnh, người yếu và ở mỗi người vía có lúc yếu lúc mạnh khác nhau tùy vào sức khỏe, tuổi tác. Thường người gặp vận may là người vía mạnh. Cũng có vía lành và vía dữ, người nào vía lành thì đoàn tụ được nhiều người, người vía dữ bị mọi người lánh xa vì hay mang tai họa cho người khác.
Quan hệ giữa con người với các thần linh, ma quỷ chi phối đời sống của từng người: Thần làm tốt cho con người, người phải trả ơn, phải dâng lễ vật để lễ thần. Nếu không, con người mắc nợ với thần linh, nợ không trả, thần làm cho người đó luôn luôn không gặp vận may, bị mất mùa, ốm đau, chết chóc... Vậy quan hệ giữa con người với thần linh, ma quỷ là quan hệ của một kẻ yếu cần được che chở, giúp đỡ.
1.1.2. Dân tộc Bana và đạo Công giáo ở Kon Tum
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, trước nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp và sự dính líu của các nhà truyền giáo đạo Công giáo trong âm mưu đó, triều Nguyễn đã ban hành hàng loạt các chỉ dụ cấm đạo (từ tháng 11-1832 dưới thời Minh Mạng đến tháng 11-1861 dưới thời Tự Đức, có tất cả 11 chỉ dụ cấm đạo), tùy theo thời điểm mà mức độ các chỉ dụ ngày càng nghiêm ngặt và khốc liệt hơn. Việc làm của các ông vua triều Nguyễn vào lúc này, suy cho cùng xuất phát từ ý thức phòng vệ trước sự mất còn của triều đại và dân tộc.
Chúng ta đã khẳng định được rằng, sự truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam đặc biệt kể từ cuối thế kỷ XVIII sang nửa đầu thế kỷ XX, không thuần túy chỉ là việc truyền bá đức tin mà chứa đựng đầy rẫy những việc làm liên hệ với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Đây chính là nguyên nhân ban đầu, sâu xa dẫn tới những nguyên nhân cụ thể trực tiếp khác đẩy triều Nguyễn đi đến chủ trương cấm và giết đạo. Chủ trương này là một phản ứng từ nhẹ nhàng, tới kiên quyết và trở thành luật của nhà nước [30, tr. 45].
Năm 1840, giáo sĩ Cuénot kế vị giám mục Fabord, làm giám mục chính tòa địa phận đàng trong (1840-1861). Cũng trong năm này, giám mục Cuénot nhóm họp cộng đồng miền Nam tại Gò Thị, (Tuy Phước, Bình Định), tại cuộc họp này đã chia đàng trong ra nhiều giáo phận và bàn việc tiến hành truyền giáo lên Tây Nguyên. Vùng Tây Nguyên lúc này còn tương đối độc lập và dưới quyền tự trị của các thủ lĩnh người dân tộc. Đây là cơ hội thuận lợi để các nhà truyền giáo mở rộng nước Chúa về phía Tây mà không có sự cấm đoán của Triều Nguyễn.
Năm 1842, giám mục Cuénot chỉ thị cho 2 linh mục thừa sai Miche và Daclos cùng với một số thầy giảng người việt đột nhập từ Phú Yên lên vùng cheo leo của GiaLai và Bản Đôn (ĐăkLăk), nhưng đã bị bắt đưa về triều đình Huế. Những năm kế tiếp, họ lại mở vài ba vụ mưu toan vượt biên khác, qua lối Quảng Ngãi để vào Kon Tum song đều thất bại.
Nhiều lần tìm đường vô Tây Nguyên không thành công, các thừa sai người Âu không thể mạo hiểm đi vào rừng núi mà không có người hướng đạo. Cuối cùng họ đã tìm ra được một con đường mới, lần này họ xâm nhập từ phía Bình Định, từ điểm An Sơn (nay là Tây Sơn), nơi giáp ranh giữa người Thượng với người Kinh.
Vào năm 1848, sau nhiều lần đột nhập thất bại, lần này thận trọng hơn, họ cử một người Việt gốc địa phương giả làm lái buôn trà trộn vào đám người Kinh lên buôn bán ở vùng dân tộc Tây Nguyên. Với mục đích nắm tình hình và tìm một con đường đi về hướng tây, nơi mà người Kinh chưa tới được. Cách làm này, bước đầu có kết quả: "Với bao nhiêu là vất vả, khó nhọc và kiên tâm, trì chí, thầy phó tế Do đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trước tiên, thầy đã biết được một ít thổ ngữ thượng, đó là điều căn bản; kế đến và nhất là thầy đã khám phá ra con đường độc đáo, hiểm trở, ngoài các con đường thông thường của các thương buôn người Kinh sử dụng, mà qua đó, các vị thừa sai có thể kín đáo tới được các vùng rừng núi phía tây" [11, tr. 8-10].
Khi đã tìm được đường vào Tây Nguyên, tránh sự truy lùng của quan quân triều Nguyễn, các thừa sai lần lượt xâm nhập sâu vào phía tây rừng núi, càng xa càng tránh được tầm kiểm soát của triều đình. Công cuộc truyền giáo, con đường dẫn đến thành công của các vị thừa sai, ban đầu đầy thử thách cam go: bệnh tật nơi rừng thiêng nước độc đã lấy đi nhiều sinh mạng khi các vị mới đặt chân đến; sự thờ ơ, lạnh nhạt và cả sự cấm cửa của dân làng người dân tộc. Nhưng với đức tính kiên trì, mẫn cảm trong công việc, lòng tin được thăng hoa. Mặc dù trải qua thăng trầm khó khăn nhưng cuối cùng họ đã gieo được những hạt giống đầu tiên ở Tây Nguyên, 5 năm sau 1853 (kể từ năm 1848) bước đầu họ đã xây dựng được cơ sở truyền giáo ở bốn làng dân tộc trong tỉnh Kon Tum: Konkơxâm (Bana), Kontrang (Xê Đăng), Rơhai (Bana), Pleichữ (Gia Rai) và cùng trong năm này, có ba người dân địa phương đầu tiên nhận phép rửa tội (một ở Konkơxâm, hai người ở Kontrang). Từ bốn trung tâm đầu tiên này, đạo Công giáo dần dần phát triển ra các vùng khác. Tuy rằng chậm, từng bước một nhưng thật chắc chắn.
Vậy thì bằng cách nào mà đạo Công giáo xâm nhập được vào dân tộc Bana và thu phục được nhiều người tin đạo như vậy. Trong khi đó, buổi đầu truyền giáo, dân tộc bản địa ở đây tỏ ra chống đối và không chấp nhận đạo Công giáo và các vị thừa sai.
- Trước hết, tính kiên trì, lòng nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ đã giúp họ thành công, chỉ riêng con đường đi, vượt qua bao niêu chướng ngại, thú dữ và kẻ thù luôn đeo bám, nếu không có những đức tính cần thiết sẽ khó vượt qua: khi đến làng dân tộc nào không tiếp hoặc xua đuổi, họ làm trại trong rừng để ở; khi đối mặt với nguy hiểm, họ điềm tĩnh một cách liều lĩnh; bệnh tật đã giết chết nhiều người và làm suy yếu nhiều người khác, họ vẫn không nản; bao nhiêu năm trời sống giữa cộng đồng xa lạ, luôn có sự mặc cảm, chống đối, nhưng họ vẫn kiên trì bám trụ. Chính điều này đã đem lại kết quả cho họ.
- ở xứ Thượng, chủ làng, già làng là những người có uy tín và quyền uy trong cộng đồng. Sự khôn khéo của các nhà truyền giáo là tìm cách chiếm cảm tình của họ, bằng nhiều cách như kết nghĩa cha con, anh em hoặc biếu tặng một vài vật dụng cần thiết, dần dà họ tạo ra được mối quan hệ thân thiết với những người có uy tín trong làng. Nhờ có sự quen biết này họ dễ dàng đi lại và tiếp xúc với nhiều người.
Đối tượng các nhà truyền giáo quan tâm nữa là thanh thiếu niên và giới phụ nữ. Thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào những điều mới lạ, còn phụ nữ là những người nhẹ dạ cả tin. Điều này được minh chứng bởi số lượng tín đồ tân tòng ở hai giới này bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao so với lớp người già và đàn ông. Sau này, họ cũng là những người sốt sắng việc đạo hơn cả.
- Một ưu điểm của các vị thừa sai là khi đến một dân tộc nào, việc quan trọng đầu tiên là bắt tay vào nghiên cứu và học ngôn ngữ của dân tộc ấy. Chính nhờ nói được ngôn ngữ của dân tộc bản địa, nên họ nhanh chóng am hiểu được phong tục tập quán, dễ dàng tiếp xúc, gần gũi với người bản xứ. Đồng thời họ không gặp khó khăn gì trong việc chuyển tải nội dung của giáo lý đạo Công giáo cho dân làng. Một xúc cảm tự n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVA~1.DOC
- MUCLUC.DOC