Luận giải về kịch bản trong quy hoạch chiến lược phát triển tài nguyên nước

Khái niệm về kịch bản trong quy hoạch phát triển hiện nay còn đang có nhiều

cách hiểu khác nhau dẫn tới thiếu thống nhất trong khi áp dụng. Để phục vụ cho

công tác quy hoạch nói chung và các nghiên cứu chiến lược nói riêng, sau khi nghiên

cứu các phương pháp quy hoạch chiến lược của UNESCAP, chúng tôi viết bµi này

để luận giải về khái niệm kịch bản dùng trong quy hoạch chiến lược.

Bµi viÕt được trình bày theo phương pháp quy nạp, tức là bắt đầu từ những vấn

đề về xuất xứ và ứng dụng của kịch bản, sau đó mới đi tới định nghĩa về kịch bản.

Khái niệm kịch bản ở đây nằm trong phạm vi của quy hoạch chiến lược phát triển

tài nguyên nước, cho nên ở phần đầu chúng tôi cũng trình bày một số khái niệm về

chiến lược, từ đó đi tới nhu cầu và phương pháp xây dựng kịch bản. Để tránh nhầm

lẫn, bµi viÕt cũng phân tích sự khác nhau giữa kịch bản và một số cách xử lý khác

đối với những biến động bất thường trong tương lai của phương pháp quy hoạch

truyền thống.

pdf17 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 836 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Luận giải về kịch bản trong quy hoạch chiến lược phát triển tài nguyên nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưa có sự chuẩn bị kỹ càng. Các công ty mới này không thể đạt được mục tiêu lợi nhuận của họ do ước tính thấp hơn thực tế khối lượng đầu tư cần thiết chỉ để nâng cấp hệ thống hiện thời. Họ cố gắng nâng cao lợi nhuận bằng cách tăng giá, nhưng những người sử dụng cũng lại tăng cường sử dụng nước không có giấy phép, khiến cho các công ty không thể đạt được mục đích. Vì vậy các công ty này vẫn lâm vào tình trạng thiếu vốn và do đó không làm đủ hệ thống dẫn nước cho số dân gia tăng. Những người dân này buộc phải mua nước với giá cao từ những người bán lẻ, hoặc phải tìm kiếm nguồn nước (mà thường là bẩn) từ các giếng khoan và các giếng nông, khiến cho thời gian dành cho chăm sóc con cái và các cơ hội kiếm tiền khác bị giảm đi. Cả số lượng và chất lượng nước kiếm được đều không đáp ứng được tiêu chuẩn sức khoẻ cho khối dân thành thị đang gia tăng - những người không có điều kiện dùng nước sạch và sử dụng dịch vụ vệ sinh. Do vậy mà tình trạng bệnh tật và thiếu dinh dưỡng tăng lên một cách nhanh chóng. 3. Kịch bản sử dụng nước bền vững Kịch bản sử dụng nước bền vững (SUS) khai thác những tiềm năng nhằm phân bổ nước dùng cho các mục đích môi trường đang tăng đột ngột và nhằm cung cấp đủ nước từ hệ thống ống nước cho tất cả dân cư đô thị, trong khi vẫn duy trì sự sản xuất lương thực ở mức của kịch bản BAU. Nó nhằm đạt sự cân bằng tốt hơn trong xã hội và bảo vệ môi trường qua việc cải cách theo hướng thị trường trong ngành nước và hoạt động sâu rộng hơn, hợp tác hơn của chính phủ. Điều này bao gồm việc đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và cải cách quản lý nguồn nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nước, và đầu tư vào kỹ thuật nông nghiệp và kỹ thuật sử dụng nước hiệu quả cho sản xuất, đặc biệt là ở các vùng canh tác nhờ trời. Trong lĩnh vực lương thực, tăng đầu tư cho nghiên cứu cây trồng cùng với thay đổi về kỹ thuật và cải cách quản lý nước và chính sách đã đẩy mạnh khả năng sản xuất nước và tăng năng suất cây trồng trong nông nghiệp tưới nhờ trời. Tính chất thất thường và không đồng đều của mưa khiến cho cây trồng phát triển khó khăn hơn, và cho đến những năm gần đây thì tiềm năng năng suất ngũ cốc vẫn tăng không đáng kể ở những vùng có chế độ mưa không thuận lợi cùng với điều kiện môi trường khắc nghiệt và đất đai nghèo chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, các chứng cứ đã cho thấy có tiềm năng tăng năng suất đột biến – ngay cả trong những vùng canh tác nhờ trời có nhiệt độ cao và thường xuyên bị hạn hán đe doạ - nhờ có sự thay đổi về chiến lược tạo giống nhằm trực tiếp vào vùng phụ thuộc mưa chứ không coi chìa khoá để dẫn đến sự tăng trưởng nhanh hơn là nhờ những vùng được tưới. Các đầu tư nghiên cứu trong nông nghiệp được tăng cường, cả bằng phương pháp cũ và áp dụng công nghệ sinh học - chẳng hạn như chọn lọc di truyền và công nghệ nuôi cấy tế bào và mô – dẫn tới năng suất ngũ cốc cao hơn ở những vùng canh tác nhờ trời. Tăng trưởng này là do năng suất tiềm năng đã được tăng dần lên và do khả năng chịu các tác động ngoại cảnh (trong đó có khả năng chịu hạn) tốt hơn. Năng suất tăng lên còn nhờ gieo cấy nhiều loại cây trồng ứng với từng loại vi môi trường chịu tác động của điều kiện thời tiết. Việc tăng cường đầu tư và cải thiện chính sách trong cơ sở hạ tầng nông thôn giúp cho bù lại chỗ thiếu hụt còn lại về năng suất 14 bằng cách tạo thị trường cho những nông dân ở vùng xa xôi hẻo lánh và giảm rủi ro trong trồng trọt nhờ trời. Trong lĩnh vực nước ở kịch bản SUS, giá nước hiệu quả cho ngành nông nghiệp tăng dần khiến người sử dụng tiết kiệm nước, và nước đó được chuyển sang cho các mục đích môi trường, sinh hoạt và công nghiệp. Tới năm 2025, giá nước nông nghiệp sẽ tăng gấp hai lần ở những nước phát triển, và tăng gấp 3 lần so với mức giá rất thấp ở các nước đang phát triển theo kịch bản BAU. Việc tăng giá nước nông nghiệp được thực hiện thông qua các chương trình khuyến khích mang lại cho nông dân một khoản thu nhập nhờ lượng nước họ tiết kiệm được, chẳng hạn như chương trình giá ngược ( negative pricing ) hay các cơ chế trợ giá (charge subsidy schemes), tức là trả công cho nông dân do họ đã giảm lượng nước sử dụng, và qua sự thành lập thị trường mua bán quyền về nước. Trong trường hợp việc thiết lập trực tiếp các quyền về nước cho nông dân không thể thực hiện được (chẳng hạn như ở các hệ thống thuỷ nông lớn trồng lúa phục vụ cho nhiều hộ nông dân nhỏ), thì quyền về nước sẽ được thiết lập nên cho các cộng đồng, các hội sử dụng nước. Các tổ chức này với sự hiểu biết tốt hơn về những điều kiện trồng trọt của địa phương sẽ thực hiện những thay đổi trong các chương trình khuyến khích về giá đối với các thành viên của họ. Việc chuyển giao quyền về nước cho các cộng đồng và các hội sử dụng nước (WUAs) ở nhiều vùng được đi kèm với chuyển giao quản lý và vận hành (O& M) cho các tổ chức này. Việc chuyển giao kết hợp cả các quyền về nước và các hệ thống sẽ mang lại sự quản lý hiệu quả hơn các hệ thống thuỷ nông cấp hai và cấp ba. Kết hợp việc tăng giá nước trên cơ sở các quyền về nước với chuyển giao quản lý hệ thống sẽ khiến nông dân đầu tư nhiều hơn vào kỹ thuật tưới tiêu và quản lý nước. Khi ngành công cộng tăng cường đầu tư trực tiếp, nông dân và cộng đồng tăng cường các đầu tư tư nhân của họ, thì hiệu quả hoạt động của hệ thống thuỷ nông và hiệu quả sử dụng nước trong lưu vực sẽ tăng mạnh. Sự phân quyền thành công một số chức năng quản lý nước quan trọng thông qua cộng đồng và thông qua quản lý trên cơ sở khuyến khích người dân được hỗ trợ ở cấp lưu vực sông bằng việc thiết lập nên các RBO hiệu quả nhằm quản lý việc phân bổ nước trong sông dụa trên sự kết hợp của các quyền lợi của các bên có liên quan. Đầu tư cao hơn và giảm bớt mâu thuẫn về nước - một kết quả mang lại từ việc cải thiện tổng thể công việc quản lý nước - tạo điều kiện cho sự tham gia của các bên có liên quan một cách hiệu quả trong RBO. Sự phát triển vượt bậc trong công nghệ thu gom nước bao gồm giá cả thấp, công nghệ tiết kiệm công lao động và vật liệu xây dựng trong khi xây dựng đê đập và xây dựng hệ thống phân phối nước dẫn đến các nước đang phát triển áp dụng công nghệ thu gom nước nhiều hơn, cải thiện việc sử dụng hiệu quả nước mưa trong trồng trọt và tăng lượng bốc thoát hơi qua cây trồng trên một đơn vị lượng mưa . Ngoài việc thu gom nước, việc sử dụng các kỹ thuật trồng trọt tiên tiến còn giúp cho đất đai được bảo vệ tốt hơn và sử dụng hiệu quả nước mưa cũng tốt hơn. Trong khi kỹ thuật nông nghiệp truyền thống có xu hướng áp dụng cùng một kiểu quản lý cho toàn bộ cánh đồng, thì phương pháp nông nghiệp chính xác tập trung vào công nghệ thông tin sử dụng các dữ liệu về đất, cây trồng và các dữ liệu môi trường khác để xác định các đầu vào cụ thể cần thiết cho các từng khu riêng rẽ trong cánh đồng. Những phương pháp như thế sử dụng các kỹ thuật mới như hệ thống định vị toàn cầu (GPS), vệ tinh và viễn thám. Kỹ thuật nông nghiệp chính xác trực tiếp làm tăng sản lượng cây trồng và tăng lượng nước có thể khai thác do nước mưa ngấm xuống nhiều hơn. Sau khi được ứng dụng đầu tiên ở Mỹ, nó lan rộng nhanh chóng ở đó cũng như ở các nước phát triển có công nghệ thông tin tiên tiến rẻ tiền, và bắt đầu xâm nhập vào những vùng canh tác nông phẩm hàng hoá ở các nước đang phát triển như Argentina, Brazil, Trung Quốc và Ấn độ. Tỷ lệ áp dụng 15 các kỹ kỹ thuật tiên tiến khác không ngừng tăng lên, bao gồm cả trồng trọt trên ruộng bậc thang và san bằng mặt đất để giữ nước mưa và tạo độ thấm tốt hơn. Các kỹ thuật làm đất bảo tồn, như cày sơ qua và hoàn toàn không cày, đã phổ biến ở các hệ thống trồng lúa mỳ ở các nước Nam Á vào cuối thể kỷ hai mươi đang được tiếp tục mở rộng. Việc áp dụng kỹ thuật làm đất bảo tồn làm tăng lượng nước mưa ngấm xuống đất và lượng bốc thoát hơi. Sự kết hợp của công nghệ thu gom nước, kỹ thuật nông nghiệp chính xác và kỹ thuật làm đất bảo tồn làm tăng lượng mưa hiệu quả sử dụng trong trồng trọt. Dưới áp lực của sự tăng nhanh chi phí trong xây dựng các đập mới, chi phí cho di dân tái định cư cùng với chi phí cho môi trường, các nước đang phát triển (và phát triển) đã thực hiện việc tái đánh giá toàn diện các kế hoạch xây dựng hồ chứa, bao gồm cả việc phân tích chi phí và hiệu ích mới của các dự án đề xuất ( gồm cả các chi phí về môi trường ) và sự tham vấn với nhiều bên có liên quan bao gồm những người sẽ được hưởng lợi như các nông dân trực tiếp sử dụng nước của hệ thống tưới mới, những người sẽ được hưởng lợi do kiểm soát lũ tốt hơn, và những người có thể chịu tác động tiêu cực do những đập mới này gây ra, chẳng hạn như phải di chuyển đi nơi khác hay những nhóm người bảo vệ môi trường. Quá trình này khiến cho một số lớn các dự án xây dựng hồ chứa và đập dâng đã được quy hoạch bị cắt bớt. Việc cắt giảm này được bù đắp một phần do lượng bồi lắng của các hồ giảm xuống nhờ việc tăng nhanh hơn năng suất cây trồng ở những vùng canh tác nhờ trời làm giảm xu hướng phá rừng của nông dân để lấy đất trồng trọt ở vùng thượng nguồn . Chi phí bơm nước ngầm tăng nhanh, cùng với việc mực nước ngầm bị giảm và tầng nước ngầm bị khai thác quá mức bị suy thoái, đã dẫn tới một sự thay đổi lớn trong luật khai thác nước ngầm. Một sự kết hợp giữa giải pháp hướng thị trường ấn định quyền về nước ngầm dựa vào lượng nước khai thác và lượng nước tái nạp hàng năm cùng với việc ban hành các luật lệ nghiêm ngặt hơn và buộc thi hành nghiêm chỉnh hơn các luật này , sẽ làm giảm dần lượng nước ngầm bị khai thác quá mức. Tương tự như trong quản lý nước nông nghiệp, trong lĩnh vực nhu cầu nước công nghiệp và sinh hoạt cũng có những đổi mới ngoạn mục. Việc tăng gấp đôi giá nước cho các hộ sử dụng được thực hiện dần dần, với sự trợ giá dành cho các hộ có thu nhập thấp. Số lợi nhuận sinh ra từ việc tăng giá sẽ được đem đầu tư để giảm lượng nước tổn thất trong các hệ thống cung cấp nước hiện có và mở rộng hệ thống tới các hộ trước đây chưa được sử dụng nước cấp từ ống. Ở nhiều thành phố lớn, hệ thống cấp nước được tư nhân hoá, và nguồn đầu tư tăng thêm có được nhờ vào các thị trường vốn tư nhân. Ở nhiều thành phố khác, việc cung cấp nước thuộc vào sự quản lý của nhà nước, nhưng hệ thống điều tiết được tách ra khỏi phân phối dịch vụ và được cải thiện rất nhiều. Nhờ cải tiến hoạt động, các hệ thống công cộng có thể làm tăng vốn mới cần thiết qua việc ban hành công trái của thành phố, hoặc trong trường hợp là thành phố nhỏ, là công trái có sự ủng hộ của các hội đồng quản lý nước của vùng với sự hỗ trợ của nhà nước và quốc tế. Bằng chứng hùng hồn của việc được sủ dụng nước sạch làm giảm đáng kể tình hình thiếu dinh dưỡng ở trẻ em và số người tử vong đã thúc đẩy nguồn vốn công cộng của quốc gia và quốc tế. Điều đó cũng làm tăng việc cung cấp từ các giếng khoan ở những vùng chưa được cung cấp nước từ hệ thống ống dẫn, do vậy số hộ được sử dụng nước sạch tăng lên và giá tiền của nước không thuộc hệ thống giảm xuống, cuối cùng là thúc đẩy sự sử dụng nước của các hộ chưa được kết nối với hệ thống. Việc cung cấp nước mở rộng liên tục, số hộ chưa được nối với hệ thống ống dẫn giảm dần và đến năm 2010 toàn bộ các hộ sẽ được sử dụng nước từ hệ thống ống dẫn. Đối với ngành công nghiệp, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, trước tình hình giá nước cao lên như vậy, họ đã tăng đáng kể việc sử dụng nước tái chế, giảm lượng nước tiêu thụ. Sự hạn chế về kỹ 16 thuật trong tái sử dụng nước ở các nước đang phát triển cũng có nghĩa là có tiềm năng cải thiện mạnh, và nhu cầu đáp ứng lại sự tăng giá của ngành công nghiệp là tương đối lớn. Với áp lực xã hội nặng nề trong vấn đề cải thiện chất lượng môi trường, việc phân phối sử dụng nước cho các mục đích môi trường được tăng cường. Ngoài ra, áp lực đối với vùng đất ướt và các mục đích môi trường nước khác giảm xuống do có nhiều công cuộc cải cách được thực hiện trong cả lĩnh vực nước nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tất cả lượng nước tiết kiệm được ở cả trong nước sinh hoạt và nước đô thị từ việc đặt giá nước cao hơn được phân bổ hoàn toàn cho sử dụng môi trường trong sông. Việc cải thiện hiệu quả sử dụng nước từ việc tăng đầu tư và quản lý tốt hơn có nghĩa rằng có nhiều nước hơn được để lại trong sông cho các mục đích về môi trường. VIII. Các định nghĩa về kịch bản 1. Định nghĩa của Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế Một kịch bản là một mô tả mạch lạc, nhất quán nội bộ và hợp lý về một tình trạng tương lai có thể của thế giới. Một kịch bản không phải là một dự báo mà là một ảnh chụp nhanh về tương lai có thể mở ra như thế nào. 2. Định nghĩa của các chuyên gia ADB Các kịch bản là cái nhìn về các phương án thành tựu tương lai của một đất nước, giúp cho các nhà hoạch định chính sách quản lý rủi ro và xây dựng các chiến lược và các kế hoạch bất thường. 3. Định nghĩa của các chuyên gia ESCAP Một Kịch bản mô tả một tương lai có thể xảy ra là bối cảnh cho Nhiệm vụ. Thông thường một số kịch bản mô tả một khoảng biến thiên các tương lại có thể được xây dựng trong quá trình tiến hành quy hoạch chiến lược. Quá trình hình thành Kịch bản bắt nguồn từ và được xây dựng từ các các phân tích động lực. Kịch bản có tính năng động, nó bao gồm một loạt các nội dung thể hiện sự phát triển của môi trường bên ngoài trong tương lai. Các Kịch bản bao gồm các sự kiện, các nhân tố chính, và phản ánh các xu hướng, các chu trình, các sự kiện ngẫu nhiên và các sự kiện đột xuất. Kịch bản bên ngoài được dựa trên các mô hình trí tuệ của môi trường bên ngoài được thống nhất và chia sẻ. Kịch bản bên ngoài nhất quán bên trong và đòi hỏi các mô tả các tương lai có thể xảy ra tương ứng với Nhiệm vụ đã có. Chúng được trù tính sẽ là đại diện của khoảng biến thiên sự phát triển của các tương lai có thể và các kết quả có thể xảy ra trong môi trường bên ngoài. Những gì diễn ra trong kịch bản bên ngoài về cơ bản nằm ngoài sự kiểm soát của tổ chức (tức môi trường bên trong). Một cách dùng khác của thuật ngữ Kịch bản, đó là như một bản đồ quy chuẩn cho một tương lai mong muốn. Kịch bản bên trong hay quy chuẩn mang tính quy chuẩn ở khía cạnh có một đích xác định được tìm kiếm, một đích được đánh giá là tốt hơn các kết quả khác có thể đạt được. Kịch bản bên trong hay quy chuẩn là một loạt các lý lẽ có tính nhân quả, kết nối các hoạt động và quyết định với một mục đích mong muốn (“Nếu tổ chức làm điều này, rồi điều này sẽ xảy ra, nó sẽ dẫn tới điều kia và cứ tiếp tục như thế cho đến khi Đích A sẽ đạt được”). So sánh với Kịch bản bên ngoài, Kịch bản bên trong thường ít hoàn chỉnh hơn, nhưng theo định nghĩa thường nhất quán ở bên trong. Ví dụ, nếu một Uỷ ban lưu vực sông nhìn nhận tương lai của nó như một cơ quan điều phối của các cơ quan phụ trách các tài nguyên thiên nhiên hoạt động trong một môi trường nhất định, và dự tính sử dụng chức năng đó để đạt được sự phát triển bền vững của lưu vực, sử dụng chiến lược trồng rừng, đó chính là Kịch bản bên trong quy chuẩn. Sở dĩ nó 17 được gọi là bên trong bởi vì kịch bản được dựa trên các quyết định nằm dưới sự kiểm soát (ít nhất là theo nguyên tắc) của tổ chức đang đề cập. Mặc dù Kịch bản bên trong quy chuẩn có thể sử dụng như hợp phần của các chiến lược, nghĩa là như những lộ trình tiến tới, nhưng chúng không thay thế Kịch bản bên ngoài. Kịch bản bên ngoài rất hữu dụng và được sử dụng trước hết trong quá trình quy hoạch chiến lược, do nếu chúng được xây dựng hoàn chỉnh sẽ rất khách quan hoặc không phụ thuộc vào các giá trị. Chúng cho phép các lãnh đạo, các nhà quản lý và các bên quan tâm khác, quan sát thế giới qua nhiều lăng kính khác nhau, mở rộng tầm hiểu biết của họ. Kịch bản bên ngoài tập trung vào bối cảnh chứ không chỉ “sân chơi” hàng ngày. Các cá nhân, cũng như tổ chức đều xây dựng Kịch bản bên trong hay quy chuẩn. Ví dụ, một các nhân có thể quyết định anh/chị ta sẽ trở thành một bác sĩ, và lập ra một kịch bản để thực hiện mục đích đó. Kết luận Từ các phần đã được trình bày ở trên, có thể thấy rằng xây dựng kịch bản là một công việc đặc biệt quan trọng đối với quy hoạch chiến lược. Xây dựng kịch bản không thể chỉ do một chuyên gia nào đó thực hiện ( như thường làm đối với công tác dự báo phương hướng phát triển trong phương pháp quy hoạch truyền thống ) mà phải do một nhóm chuyên gia đa lĩnh vực tiến hành, đồng thời tập hợp được ý kiến của nhiều chuyên gia đầu ngành. Người viết mong rằng bµi viÕt này có thể đóng góp chút ít vào quá trình hình thành quy hoạch chiến lược tµi nguyªn n­íc, để có thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững cho Việt nam trong tương lai. Tài liệu tham khảo : 1. Guidelines on strategic planning and management of water resources. Douglas Webster and Le huu Ti. 27 March 2002. 2. Scenarios – The art of strategic conversation. Kees van der Heijden. 1996 3. World Water and Food to 2025 : Dealing with Scarcity. Mark W. Rosegrant, Ximing Cai, Sarah A. Cline. International Food Policy Research Institute. Washington, D.C. 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02_to_trung_nghia_luat_giai_kich_ban_quy_hoach_9575.pdf