Theo định nghĩa về nhân chủng học: một chủng tộc là một quần thể dân cư từ
bẩm sinh đã có đầy đủ những yếu tố di truyền tổng hợp và biểu lộ thành đặc điểm
cơ thể [88] [83].
Mỗi con người chỉ thuộc một chủng tộc và những người có chung một chủng
tộc được xét dựa trên những đặc tính sinh học chủ yếu hay những đặc điểm chung
tương đồng. Trong ý nghĩa này, chúng ta căn cứ theo tính tương đồng về sinh học
để phân biệt các nòi giống, chủng tộc trong nhân loại [88] [83].
Chủng tộc được hình thành theo yếu tố địa lý là một quần thể nhân loại sinh
sống trong một khu vực lục địa hay một dãy quần đảo, trong một thời gian dài đủ để
phát triển một tổng hợp di truyền của riêng mình và khác biệt với những yếu tố di
truyền của các quần thể dân cư các lục địa khác [84] [113] [128] [89].
161 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận án thực trạng nhiễm hiv/sti, một số yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp dự phòng ở người dân tộc dao tại 3 xã của tỉnh yên bái, 2006 - 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t;0,001 175
Không có nguy cơ 360 56,9 520 65,9 P<0,01 16
Không biết 252 39,9 200 25,4 p<0,001 (36)
*(): Giá trị âm
Thay đổi nhận thức về nguy cơ lây nhiễm HIV cũng là nội dung quan trọng
để đánh giá hiệu quả của can thiệp. Sau 6 năm can thiệp, tỷ lệ người dân tộc Dao có
thể phân biệt được bản thân có nguy cơ lây nhiễm HIV hay không tăng 175%; 16%
(p<0,001) và tỷ lệ người tham gia không biết có nguy cơ lây nhiễm HIV hay không
giảm 36% từ 39,9% năm 2006 xuống 25,4% năm 2012 (p<0,001).
101
3.3.4. Hiệu quả thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/STI
Bảng 3.31. Thay đổi về đặc điểm hành vi QHTD
Đặc trưng
TCT 2006
(n=731)
SCT 2012
(n=757) p
CSHQ
(%)
n % n %
QHTD với bạn tình bất chợt trong
12 tháng qua
40 5,5 199 26,3 p<0,001 378
- 15 – 24 tuổi 20 8,8 60 27,9 p<0,001 217
- 25 – 49 tuổi 20 4,0 139 25,6 p<0,001 540
Dùng BCS trong lần QHTD gần
nhất với vợ/chồng/người yêu
57 8,0 156 21,3 p<0,001 166
- 15 – 24 tuổi 27 12,6 77 39,1 p<0,001 210
- 25 – 49 tuổi 30 6,1 79 14,8 p<0,001 143
Luôn dùng BCS khi QHTD với
vợ/chồng/người yêu trong 12
tháng qua
25 3,5 42 5,8 P<0,05 66
- 15 – 24 tuổi 13 6,1 26 13,2 p<0,05 116
- 25 – 49 tuổi 12 2,4 16 3,0 p<0,05 25
Dùng BCS trong lần QHTD gần
nhất với BTBC
9 22,5 106 53,3 p<0,001 137
- 15 – 24 tuổi 5 25,0 40 66,7 p<0,001 167
- 25 – 49 tuổi 4 20,0 66 47,5 p<0,001 138
Luôn dùng BCS khi QHTD với
BTBC trong 12 tháng qua
5 12,5 34 17,1 p>0,05 37
- 15 – 24 tuổi 2 10,0 15 25,0 p>0,05 150
- 25 – 49 tuổi 3 15,0 19 13,7 p>0,05 (9)
Luôn dùng BCS khi QHTD với
các loại bạn tình trong 12 tháng
25 3,5 38 5,1 p>0,05 46
- 15 – 24 tuổi 13 5,9 25 12,0 p<0,05 103
- 25 – 49 tuổi 12 2,4 13 2,4 p>0,05 0
*(): Giá trị âm
Các hành vi sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình đã có những thay
đổi tích cực trong nhóm DTTS tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD
lần gần nhất với vợ/chồng/người yêu tăng 166% từ 8,0% năm 2006 lên 21,3% năm
102
2012 (p<0,001). Tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD lần gần nhất với BTBC cũng tăng
137% từ 22,5% năm 2006 lên 53,3% năm 2012 (p<0,001). Tỷ lệ luôn sử dụng BCS
khi QHTD với vợ/chồng/người yêu trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn tăng
66% (p<0,05) trong khi tỷ lệ này với BTBC không có sự khác biệt giữa hai vòng
điều tra (p>0,05). Tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình tăng từ
3,5% lên 5,1%, trong đó nhóm 15-24 tuổi tăng 103% từ 5,9% lên 12,0% (p<0,05).
Để giải thích cho tỷ lệ nhiễm giang mai giảm trong nhóm thanh thiếu niên
đồng bào Dao tại địa bàn nghiên cứu, các hành vi sử dụng BCS khi QHTD với các
loại bạn tình trong nhóm 15-24 cũng cho thấy những thay đổi tích cực trong nhóm
thanh thiếu niên người Dao tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi
QHTD với các loại bạn tình trong đó nhóm 15-24 tuổi tăng 103% từ 5,9% lên
12,0% (p<0,05). Tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD lần gần nhất với vợ/chồng/người
yêu tăng 210% từ 12,6% năm 2006 lên 39,1% năm 2012 (p<0,001). Tỷ lệ sử dụng
BCS khi QHTD lần gần nhất với BTBC cũng tăng 167% từ 25% năm 2006 lên
66,7% năm 2012 (p<0,001). Tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi QHTD với
vợ/chồng/người yêu và bạn tình bất chợt trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn
tăng lần lượt 116% và 150% (p<0,05).
Bảng 3.32. Thay đổi về đặc điểm hành vi sử dụng ma túy
Đặc trưng
TCT 2006
(n=807)
SCT 2012
(n=802) p
CSHQ
(%)
n % n %
Đã từng sử dụng ma túy 13 1,6 11 1,4 p>0,05 (13)
Đã từng tiêm chích ma túy 0 0,0 0 0,0
*(): Giá trị âm
Tỷ lệ sử dụng ma túy trong nhóm dân tộc thiểu số tại địa bàn nghiên cứu vẫn
được duy trì ở mức thấp trong năm 2012 (1,4%) và không có sự khác biệt so với
năm 2006 (p>0,05).
103
3.3.5. Hiệu quả thay đổi trong tỷ lệ nhiễm HIV/STI
Bảng 3.33. Thay đổi về tỷ lệ hiện nhiễm HIV/STI theo nhóm tuổi và giới tính
Đặc trưng
TCT 2006
(n=787)
SCT 2012
(n=802) p
CSHQ
(%)
n % n %
Tỷ lệ nhiễm HIV 0 0,0 0 0,0 - -
Tỷ lệ nhiễm giang mai 27 3,4 45 5,6 p<0,05 65
Theo nhóm tuổi
- 15 – 24 9 3,1 4 1,6 p<0,05 (48)
- 25 – 49 18 3,6 41 7,5 p<0,05 108
Theo giới tính
- Nam 15 3,9 23 5,9 p>0,05 51
- Nữ 12 3,0 22 5,3 p>0,05 77
*(): Giá trị âm
Kết quả về tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm đồng bào dân tộc Dao tại địa
bàn 03 xã huyện Văn Chấn tiếp tục gia tăng và ở mức cao trong năm 2012 với
5,6%. Tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm nam giới cao hơn nhóm nữ giới trong cả
hai vòng điều tra. Kết quả phân tích trong nhóm thanh thiếu niên 15-24 tuổi cho
thấy, tỷ lệ nhiễm giang mai giảm có ý nghĩa thống kê từ 3,1% năm 2006 xuống
1,6% năm 2012. Trong khi đó, tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm 25-49 trong điều
tra năm 2012 lại cao gần gấp đôi so với năm 2006.
Mặc dù kết quả nghiên cứu không phát hiện được trường hợp nhiễm HIV
dương tính tại địa bàn nghiên cứu trong cả hai vòng điều tra, nhưng tỷ lệ nhiễm
giang mai khá cao tại đây chính là nguy cơ lớn làm xuất hiện HIV trong nhóm đồng
bào dân tộc Dao.
104
Bảng 3.34. Thay đổi về chỉ số tự báo cáo mắc các nhiễm trùng STI theo nhóm tuổi và giới
Đặc trưng
TCT 2006
(n=807)
SCT 2012
(n=802) p
CSHQ
(%)
n % n %
Tiết dịch bất thường bộ phận sinh
dục
21 2,6 19 2,4 p>0,05 (8)
Theo nhóm tuổi
- 15 – 24 10 3,3 3 1,2 p<0,05 (64)
- 25 – 49 11 2,2 16 2,9 p<0,05 32
Theo giới tính
- Nam 3 0,8 2 0,5 p>0,05 (38)
- Nữ 18 4,3 17 4,1 p>0,05 (5)
Viêm loét bộ phận sinh dục 19 2,4 2 0,3 p>0,05 (88)
Theo nhóm tuổi
- 15 – 24 11 3,7 0 0,0 p<0,05 (100)
- 25 – 49 8 1,6 2 0,4 p<0,05 (75)
Theo giới tính
- Nam 3 0,8 1 0,3 p>0,05 (63)
- Nữ 16 3,9 1 0,3 p>0,05 (92)
Mắc các nhiễm trùng STI trong 12
tháng qua
7 1,3 12 1,6 p>0,05 23
Theo nhóm tuổi
- 15 – 24 4 2,0 2 0,8 p<0,05 (60)
- 25 – 49 3 0,9 10 1,9 p<0,05 111
Theo giới tính
- Nam 0 0,0 2 0,5 p>0,05 -
- Nữ 7 2,9 10 2,6 p>0,05 (10)
*(): Giá trị âm
So sánh với kết quả xét nghiệm giang mai, tỷ lệ người dân tộc Dao tại các
địa bàn nghiên cứu tự báo cáo mắc các nhiễm trùng STI trong 12 tháng trước thời
điểm phỏng vấn thấp hơn khá nhiều và không có sự khác biệt về kết quả giữa năm
105
2006 và 2012 (p>0,05). Trong số những người từng nghe nói về các nhiễm trùng
STI năm 2006, chỉ có 1,3% cho rằng họ từng mắc các nhiễm trùng STI và tăng lên
1,6% năm 2012. Tỷ lệ người Dao có các triệu chứng như viêm loét hoặc có tiết dịch
bất thường tại bộ phận sinh dục với lần lượt 2,4%; 2,6% năm 2006 và giảm xuống
còn 0,3%; 2,4% năm 2012.
Khác với điều tra trước can thiệp năm 2006, kết quả tự báo cáo mắc các
nhiễm trùng STI cũng như các triệu chứng phù hợp với kết quả xét nghiệm giang
mai của nhóm đối tượng nghiên cứu khi phân tích theo nhóm tuổi. Tỷ lệ đối tượng
nghiên cứu tự báo cáo có các triệu chứng và mắc các nhiễm trùng STI đều giảm
trong nhóm tuổi từ 15-24 và đều tăng trong nhóm từ 25-49 tuổi trong giai đoạn
2006-2012. Phân tích trong nhóm 15-24 tuổi, kết quả tự báo cáo mắc các nhiễm
trùng STI và các triệu chứng trong 12 tháng trước điều tra năm 2012 đều thấp hơn
so với năm 2006. Tỷ lệ người dân tộc Dao mắc các nhiễm trùng STI trong 12 tháng
qua giảm từ 2% năm 2006 xuống 0,8% năm 2012. Tỷ lệ người tham gia có tiết dịch
bất thường bộ phận sinh dục giảm từ 3,3% năm 2006 xuống 1,2% năm 2012. Tỷ lệ
người bị viêm loét bộ phận sinh dục giảm từ 3,7% năm 2006 xuống 0% năm 2012.
106
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. THỰC TRẠNG NHIỄM HIV/STI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở
NGƯỜI DÂN TỘC DAO 15-49 TUỔI NĂM 2006
4.1.1. Thực trạng nhiễm HIV/STI
Tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm đồng bào dân tộc Dao trong nghiên cứu là
khá cao với 3,4%. Đây là tỷ lệ cao khi so sánh với tỷ lệ mắc giang mai là 0,5%
trong hai nhóm đại diện cho quần thể dân cư nói chung là thanh niên khám tuyển
nghĩa vụ quân sự và phụ nữ mang thai. Tỷ lệ này cũng đã gần tiếp cận với tỷ lệ
nhiễm giang mai là 4,5% trong các nhóm nguy cơ cao như nam khám các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và nhóm PNBD.
Nguyên nhân lây nhiễm giang mai được xác định chủ yếu qua hành vi quan
hệ tình dục không an toàn. Mặc dù kết quả nghiên cứu chưa cho thấy rõ vấn đề quan
hệ tình dục nhiều bạn tình của người dân tộc Dao (nguyên nhân chính là do người
Dao chưa phân biệt được bạn tình bất chợt và người yêu), nhưng qua các điều tra xã
hội học cũng như các đặc điểm văn hóa của người dân tộc Dao đã được thừa nhận
thì người dân tộc Dao có đặc điểm phóng khoáng về QHTD trong cộng đồng khép
kín. Ngoài ra, kết quả về tỷ lệ người dân có kiến thức dự phòng lây nhiễm HIV/STI
thấp, tỷ lệ luôn sử dụng BCS với các loại bạn tình thấp và việc thiếu hụt các hoạt
động can thiệp là các nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhiễm giang mai cao trong đồng
bào dân tộc Dao tại địa bàn nghiên cứu.
Tỷ lệ mắc giang mai của đồng bào dân tộc Dao cao hơn tất cả các nhóm
DTTS khác tại Việt Nam. Trong điều tra tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV trong một số nhóm DTTS từ 15-49 tuổi năm 2006, kết quả xét nghiệm
giang mai cho tỷ lệ mắc giang mai khá thấp trong nhóm dân tộc Khmer với khoảng
1,6% tại An Giang, 1,5% tại Hậu Giang và 1,4% tại Kiên Giang. Đặc biệt là tại các
tỉnh miền Bắc như Cao Bằng, Bắc Giang, Thái Nguyên và Lai Châu, không phát
hiện ra trường hợp mắc giang mai nào trong các nhóm DTTS [6].
107
Kết quả trong nghiên cứu này cũng cao tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm
đồng bào dân tộc Dao tại huyện Văn Yên là 1,1% và cao hơn nhiều so với tỷ lệ
nhiễm giang mai trong quần thể nhân dân nói chung của cả nước (khoảng 1%) [67].
So sánh với tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm nguy cơ cao là PNBD tại một
số tỉnh có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, kết quả trong nghiên cứu này cũng
tương đồng hoặc cao hơn. Nghiên cứu về các nhiễm trùng STI trong nhóm PNBD
tại Sóc Trăng có tỷ lệ nhiễm giang mai là 3,8% [109]. Trong nghiên cứu về các
nhiễm trùng STI trong nhóm PNBD tại 5 tỉnh biên giới là Lai Châu, Quảng Trị,
Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang, tỷ lệ nhiễm giang mai tại các tỉnh miền
Trung và miền Nam cao hơn với 10,7%. Tại Lai Châu, tỷ lệ nhiễm giang mai thấp
hơn với 1% [110].
So sánh với tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm PNBD tại các thành phố lớn
và các tỉnh trọng điểm, kết quả trong nghiên cứu này cũng cao hơn. Trong điều tra
giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại 9 tỉnh năm 2009, tỷ lệ
nhiễm giang mai trong nhóm PNBD được duy trì ở mức khá thấp tại tất cả các tỉnh
điều tra (dưới 2%) [5] [79]. Kết quả về tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm PNBD
trong nghiên cứu tại Khánh Hòa năm 2005 là 4,4% cũng chỉ cao hơn kết quả trong
điều tra năm 2006 và thấp hơn năm 2012 [13].
So sánh với tỷ lệ nhiễm giang mai với một số nhóm tại khu vực châu Á, kết
quả của nghiên cứu này thấp hơn. Trong nghiên cứu về HIV, các nhiễm trùng STI
và các hành vi tình dục của nhóm khách làng chơi tại Ấn Độ, tỷ lệ nhiễm giang mai
dao động từ 3,1% đến 10,1% [116]. Trong điều tra cắt ngang về tỷ lệ nhiễm các
nhiễm trùng STI trên 505 PNBD tại tỉnh miền núi Vân Nam, Trung Quốc, tỷ lệ
nhiễm giang mai là 9,5% [131].
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giang mai của nhóm đối
tượng nghiên cứu, kết quả hoạt động truyền thông trong phòng lây nhiễm HIV/STI
tại địa bàn nghiên cứu có ảnh hưởng trực tiếp tới tình trạng nhiễm giang mai của
nhóm dân tộc thiểu số. Kết quả này một lần nữa khẳng định việc tăng cường hoạt
động truyền thông dự phòng lây nhiễm HIV/STI có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm giang
108
mai, do đó tại địa bàn nghiên cứu rất cần thiết phải có chương trình can thiệp về
truyền thông, giáo dục sức khỏe trong mục tiêu làm giảm tỷ lệ nhiễm giang mai của
trong nhóm đồng bào Dao.
So với kết quả xét nghiệm giang mai, tỷ lệ người dân tộc Dao tại địa bàn
nghiên cứu tự báo cáo mắc các nhiễm trùng STI trong 12 tháng trước thời điểm
phỏng vấn thấp hơn khá nhiều (1,3%). Tỷ lệ này thấp hơn hầu hết các nhóm DTTS
khác trong điều tra tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong một số
nhóm DTTS từ 15-49 tuổi năm 2006 như dân tộc Nùng tại Bắc Giang (4,7%), dân
tộc Khmer tại Hậu Giang (4,0%), An Giang (3,3%) và Kiên Giang (3,1%), dân tộc
Raglay tại Khánh Hòa (3,0%) [6].
Kết quả phân tích theo nhóm tuổi và giới tính ngược lại so với kết quả xét
nghiệm giang mai, tỷ lệ tự báo cáo nhiễm các nhiễm trùng STI cũng như mắc các
triệu chứng trong nhóm 15-24 tuổi cao hơn nhóm 25-49 tuổi và trong nhóm nữ giới
cao hơn nam giới. Sự khác nhau giữa kết quả xét nghiệm giang mai và tự báo cáo
mắc các nhiễm trùng STI cũng như các triệu chứng trong nhóm đối tượng nghiên
cứu đã cho thấy những thiếu sót trong truyền thông về các nhiễm trùng STI. Ngoài
ra, việc giải thích chính xác các triệu chứng các nhiễm trùng STI bằng tiếng dân tộc
Dao cũng vẫn còn hạn chế.
Mặc dù chưa phát hiện được trường hợp nhiễm HIV dương tính tại địa bàn
nghiên cứu trong điều tra năm 2006, nhưng tỷ lệ nhiễm giang mai khá cao tại đây
chính là nguy cơ lớn làm xuất hiện HIV trong nhóm đồng bào dân tộc Dao.
4.1.2. Thực trạng kiến thức và nhận thức dự phòng lây nhiễm HIV/STI
Kiến thức đúng trong dự phòng lây nhiễm HIV/STI được đánh giá dựa trên
chỉ số dự phòng số 20 trong bộ chỉ số Quốc gia bao gồm việc có kiến thức đúng và
không hiểu sai về các đường lây truyền cũng như phản đối các quan niệm sai lầm về
HIV/AIIDS.
Kết quả điều tra trước can thiệp năm 2006 cho thấy chỉ có 18,7% người tham
gia nghiên cứu có kiến thức đúng về phòng lây nhiễm HIV/STI. Tỷ lệ đồng bào dân
tộc Dao có kiến thức đúng về phòng lây nhiễm HIV/STI là rất thấp so với mục tiêu
109
trong chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
Theo mục tiêu trong chiến lược được ban hành năm 2004 này là 80% người dân khu
vực nông thôn, miền núi có hiểu đúng và biết cách phòng lây nhiễm HIV/AIDS [4].
Nguyên nhân của kết quả này có thể được giải thích bởi trước thời điểm tiến hành
điều tra năm 2006, tại địa bàn nghiên cứu hầu như chưa có hoạt động phòng chống
HIV/AIDS cụ thể nào được thực hiện. Đến năm 2006, sau khi hệ thống các đơn vị
chuyên trách phòng chống HIV/AIDS được thành lập từ trung ương đến địa phương
mới bắt đầu có những hoạt động phòng chống HIV/AIDS đầu tiên và cũng chủ yếu
tập trung cho nhóm nguy cơ cao là NCMT và PNBD. Bên cạnh đó, với địa bàn
vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn và khác biệt về ngôn ngữ cũng là rào cản cho
đồng bào Dao có thể tiếp cận được các thông tin truyền thông về HIV/AIDS nói
chung.
So sánh với kết quả từ một số nghiên cứu trên nhóm quần thể nhân dân từ
15-49 tuổi về kiến thức trong phòng lây nhiễm HIV/STI trong nước cùng giai đoạn,
thì kiến thức của đồng bào Dao tại địa bàn nghiên cứu cũng thấp hơn nhiều.
Nghiên cứu trên nhóm thanh thiếu niên thành thị ở một số phường tỉnh
Quảng Ninh: 39,7% nam thanh niên 15-24 tuổi có kiến thức đầy đủ và toàn diện về
HIV/AIDS, vẫn còn 19,6% cho rằng muỗi đốt, 17,8% cho rằng ăn chung với người
nhiễm HIV có thể làm lây truyền HIV [56].
Trong nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm HIV và kiến thức, thái độ, thực hành về dự
phòng lây nhiễm HIV của các nữ thành viên câu lạc bộ Hoa Phượng, Hải Phòng
năm 2009-2010, có 72,6% người tham gia có nhận thức đúng về dự phòng lây
nhiễm HIV và tập trung chủ yếu trong nhóm có trình độ trung học phổ thông trở lên
[50].
Nghiên cứu cắt ngang tại Khánh Hòa tỷ lệ hiểu biết về HIV/AIDS của người
dân rất cao: 88,2% biết đúng cả 3 đường lây truyền HIV; 83,6% biết đúng 3 cách
phòng lây nhiễm HIV. Tỷ lệ nhóm người dân tộc khác (ngoài người Kinh) ở tỉnh có
kiến thức về HIV/AIDS rất tốt: 96,8% đã được nghe, biết về HIV/AIDS; 93,3% đã
nhận thông tin qua đài phát thanh, radio; 76,7% nhận được thông tin về HIV/AIDS
110
qua cán bộ y tế và có đến 96,7% biết đúng về cả 03 đường lây truyền HIV/AIDS;
96,7% đối tượng nghiên cứu người dân tộc khác cho rằng có khả năng HIV lây
truyền từ mẹ bị nhiễm sang con, tuy nhiên vẫn còn 53,3% đối tượng nghiên cứu cho
rằng muỗi đốt có thể lây truyền HIV [46].
Nghiên cứu hộ gia đình ở Thái Bình, thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 cho
thấy kiến thức đúng về các phương pháp phòng chống HIV/AIDS cao ở cả hai địa
phương (86% ở Thái Bình và 75,8% tại TP. Hồ Chí Minh) [106].
Nghiên cứu tại huyện Hoa Lư và thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình năm
2009 cho thấy trên 95% người dân ở cả hai khu vực hiểu rất rõ về đường lây truyền
HIV, có 68,2% dân thành thị và khoảng 68,5% dân nông thôn kể được từ 2 biện
pháp dự phòng trở lên. Khi đánh giá kiến thức cơ bản toàn diện về HIV/AIDS của
người dân ở hai khu vực (trả lời đúng tất cả các câu hỏi về kiến thức trong phiếu
điều tra), tỷ lệ này lần lượt là 51,84% ở thành phố và 50,28% ở nông thôn [51].
Khảo sát kiến thức, thái độ và hành vi về HIV/AIDS của nam ngư dân bắt cá
xa bờ tại tỉnh Bình Định (2006) cũng có kết quả khá cao: Có 82,6% người cho rằng
chung thủy một bạn tình duy nhất mà không bị nhiễm HIV sẽ không bị lây qua
đường tình dục; 91,1% người đồng ý rằng có thể bảo vệ mình khỏi nhiễm HIV qua
đường tình dục bằng việc dùng BCS đúng cách mỗi khi QHTD; 88,8% người cho
rằng dùng BKT chung lây HIV; 86,3% người cho rằng mẹ nhiễm HIV có thể lây
cho con khi mang thai và 66,1% người cho rằng HIV lây qua do bú sữa mẹ. Có
82,4% người hiểu đúng muỗi đốt không lây nhiễm HIV, 83,5% người hiểu đúng
ăn chung với người nhiễm không bị nhiễm HIV và 93,3% hiểu đúng bắt tay, nói
chuyện với người nhiễm HIV thì không bị lây HIV [70].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Đặng Cảnh Khanh còn khoảng 26 đến 35%
thanh niên nông thôn ra các thành phố lớn kiếm sống theo thời vụ nhận thức chưa rõ
hoặc hiểu nhầm về đường lây nhiễm HIV [41].
Nghiên cứu trên nhóm khách hàng đến phòng tư vấn xét nghiệm HIV tự
nguyện tại Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009, tỷ
lệ hiểu đúng các đường lây nhiễm HIV rất cao (97,3%), biết sử dụng BCS là biện
111
pháp phòng lây nhiễm HIV qua QHTD (95,5%). Tuy nhiên khách hàng cho rằng
muỗi, ong, đỉa cắn có thể làm lây truyền HIV (76,8%); ăn uống, sinh hoạt chung với
người nhiễm dễ lây nhiễm HIV (77,9%) [35].
Một nghiên cứu năm 2005 về Dân số Việt Nam và Điều tra các Chỉ số AIDS
được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê và Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương với
mục đích thu thập thông tin quốc gia và địa phương về các chỉ số kiến thức, thái độ
và hành vi tình dục liên quan đến HIV/AIDS chỉ ra rằng một nửa số phụ nữ và nam
giới không đi học chưa nghe nói về AIDS. Các biện pháp kiêng cữ như một giải
pháp ngăn chặn AIDS và họ không biết được rằng bằng cách sử dụng BCS và
chung thủy có thể phòng tránh HIV. Gần một phần hai phụ nữ và một phần ba đàn
ông không biết AIDS không thể lây truyền qua muỗi. Kiến thức lây nhiễm HIV từ
mẹ truyền cho con trong quá trình mang thai là rất cao trong khi kiến thức về thuốc
kháng HIV trong thời kỳ mang thai lại thấp [65].
Cũng giống như đồng bào Dao tại Văn Chấn, Yên Bái, các nhóm DTTS khác
tại Việt Nam đều có tỷ lệ đạt kiến thức đúng trong phòng lây nhiễm HIV/STI rất
thấp tại thời điểm năm 2006. Trong điều tra tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV trong một số nhóm DTTS từ 15-49 tuổi năm 2006 trên đồng bào các
dân tộc Thái, Tày, Nùng, Mông, Sán dìu, Raglay, Khmer lứa tuổi 15-49 tại các tỉnh
tập trung DTTS sinh sống cho thấy nhóm đối tượng nghiên cứu có hiểu biết đúng về
các phương pháp phòng lây nhiễm HIV là 13,2% đối với nam và 7,4% đối với nữ;
Tỷ lệ thanh niên 15-24 tuổi có kiến thức đầy đủ về HIV/AIDS cũng rất thấp. Các
tỉnh Lai Châu, Cao Bằng, Khánh Hòa, Hậu Giang và Kiên Giang, tỷ lệ này gần như
bằng không [6].
So sánh với kết quả từ một số nghiên cứu trên các nhóm quần thể khác nhau
về kiến thức trong phòng lây nhiễm HIV/STI trên thế giới cùng giai đoạn, thì kiến
thức của đồng bào Dao tại địa bàn nghiên cứu cũng thấp hơn nhiều.
Trong nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về HIV/AIDS của
người dân sinh sống ở khu nhà ổ chuột Chennai, thuộc thành phố Bombay, Ấn Độ
năm 2006: 20% nam giới và 11% nữ giới không biết gì về AIDS; chỉ có 67% nam
112
giới và 55% nữ giới biết được HIV có thể lây truyền qua đường tình dục; 34% nam
và 50% nữ cho rằng AIDS là bệnh di truyền; 45% nam và 62% nữ nghĩ rằng AIDS
lây truyền qua không khí, do ký sinh trùng hoặc do muỗi đốt; 30% nam và 22% nữ
có biết về các dấu hiệu của AIDS; 30% nam và 45% nữ không biết rằng, dùng
chung hoặc dùng lại BKT là một trong những nguy cơ làm lây truyền HIV; 43%
nam giới và 78% nữ không biết được việc dùng chung dao cạo râu, cắt tóc... có thể
là nguy cơ lây nhiễm HIV và 48% nam, 60% nữ cho rằng họ sẽ không sống chung
với bệnh nhân AIDS tại nhà mình [102].
Trong nghiên cứu đánh giá của dự án Phòng chống HIV/AIDS cho các nhóm
DTTS khu vực thượng nguồn sông Mekong của UNESCO khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, 88,5% người dân có thể liệt kê hai đường lây truyền HIV/AIDS,
88,1% biết ít nhất hai cách phòng tránh không lây truyền HIV/AIDS, 86% trong số
họ biết làm thế nào để tự bảo vệ mình bằng cách sử dụng BCS trong QHTD nhiều
bạn tình [81].
Trong điều tra kiến thức, thái độ, hành vi về HIV/AIDS năm 2007 tại 6 thành
phố lớn của Trung Quốc trên nhóm thanh niên, lao động di cư và công nhân từ 15-
49 tuổi: hơn 48% người được phỏng vấn nghĩ rằng họ có thể bị lây nhiễm HIV từ
muỗi cắn, trên 18% cho rằng hắt hơi hoặc ho có thể lây truyền HIV, 34% nghĩ rằng
họ có thể bị lây nhiễm HIV bằng cách ăn uống với người bị nhiễm HIV/AIDS, 35%
cho rằng sử dụng chung một nhà vệ sinh, 20% sẽ không chạm vào một thành viên
trong gia đình hoặc người thân nhiễm bị HIV [124].
Nghiên cứu cắt ngang kiến thức, thái độ, hành vi về HIV/AIDS trong nhóm
cộng đồng dân cư cận đô thị năm 2009 của Trường Đại học Y Quốc tế Malaysia:
hầu hết người được hỏi (88,5%) đã nghe nói về HIV/AIDS, tuy nhiên chỉ có một
vài đối tượng nghiên cứu (2,6%) hiểu một cách chính xác và trả lời đúng tất cả các
câu hỏi. Quan niệm sai lầm về sự lây truyền HIV đã được tìm thấy trong số những
người tham gia nghiên cứu, chẳng hạn như tin rằng HIV có thể được lây truyền từ
nước bọt (44,8%), muỗi cắn (40,9%) hoặc va chạm ngẫu nhiên (37,1%) [104].
113
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ phòng chống HIV/AIDS trong các thanh
thiếu niên tại Nigeria năm 2003: Mặc dù 93% số người trả lời đã nghe nói về
HIV/AIDS, nhưng một phần ba tới một nửa số người được hỏi tin rằng một người
có thể bị lây nhiễm HIV qua muỗi đốt, cho rằng một giáo viên hoặc học sinh bị
nhiễm bệnh không nên được phép tiếp tục giảng dạy hoặc đi học [87].
Với kết quả về tỷ lệ người dân có kiến thức đúng trong phòng lây nhiễm
HIV/STI năm 2006 rất thấp, trên địa bàn nghiên cứu cần phải có những hoạt động
can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV/STI đặc biệt là hoạt động truyền thông, giáo dục
sức khỏe nhằm mục tiêu nâng cao kiến thức của người đồng bào Dao trong phòng
lây nhiễm HIV/STI và có thể đạt mục tiêu 80% người dân có kiến thức đúng trong
phòng lây nhiễm HIV/STI vào năm 2010. Cũng theo kết quả về phân tích ảnh
hưởng đến tỷ lệ có kiến thức đúng về phòng lây nhiễm HIV/STI năm 2006 của
nhóm đồng bào Dao trong nghiên cứu, các yếu tố có ảnh hưởng bao gồm giới tính
nam, biết đọc tiếng phổ thông, nhận truyền thông/hỗ trợ từ các tổ chức địa phương,
và nhận hỗ trợ trong phòng lây nhiễm HIV/STI trong 12 tháng trước điều tra. Kết
quả phân tích này sẽ được sử dụng trong việc xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt
động can thiệp trên địa bàn nghiên cứu. Cụ thể là, các hoạt động can thiệp về truyền
thông cần được thực hiện để đảm bảo tất cả các nhóm đối tượng (cả nam và nữ) có
thể tiếp cận được, trong đó chú ý về thời gian tổ chức hoạt động, phương tiện truyền
thông và các kênh truyền thông để phù hợp với nhóm nữ giới những người phải
dành phần lớn thời gian làm việc nhà và làm việc tại nương rẫy. Bên cạnh đó, với tỷ
lệ người tham gia nghiên cứu không được đi học và không thành thạo tiếng phổ
thông khá cao, các nội dung và tài liệu truyền thông cần được thiết kế bằng cả tiếng
phổ thông và tiếng Dao. Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy vai trò của các tổ
chức tại địa phương trong việc nâng cao kiến thức của người dân trong phòng lây
nhiễm HIV/STI vì vậy, các hoạt động can thiệp cần được xây dựng với sự tham gia
mạnh mẽ từ chính quyền địa phương.
114
4.1.3. Thực trạng về thái độ với người nhiễm HIV/AIDS
Thái độ với người nhiễm HIV/AIDS được sử dụng dựa trên định nghĩa về kỳ
thị và phân biệt đối xử của UNAIDS và chỉ số dự phòng số 21 trong bộ chỉ số Quốc
gia bao gồm việc không phân biệt đối xử và không đổ lỗi phán xét với người nhiễm
HIV/AIDS.
Tại địa bàn nghiên cứu, vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm
HIV/AIDS vẫn còn rất phổ biến khi chỉ có 6,7% người tham gia có thái độ đúng với
người nhiễm HIV/AIDS. Điều này có thể là rào cản trong việc chăm sóc, tư vấn và
hỗ trợ cho người nhiễm HIV/AIDS cũng như việc triển khai các hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luananthuctrangnhiemhivsti_1_1321.pdf