Lồ Ô Trung Bộ

Thân lồ ô trung bộ có kích thước lớn nên có thể dùng trong xây

dựng nhà của, cầu cống, kết bè mảng đánh cá; làm nông cụ hoặc cư ngụ.

Thân tre cũng được dùng chẻ nan để đan lát rổ rá, dụng cụ gia đình và làm

hàng xuất khẩu. Ở Ấn Độ, thân lồ ô được dùng làm nguyên liệu trong công

nghiệp sản xuất giấy. Măng ăn ngon nên được dùng khá phổ biến. Ở

Bangladesh dùng lá tre làm thức ăn tạm thời cho gia súc lớn. Giá thông

thường ở thị trường Bangladesh khoảng 2USD/cây tre.

pdf5 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Lồ Ô Trung Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lồ Ô Trung Bộ Công dụng: Thân lồ ô trung bộ có kích thước lớn nên có thể dùng trong xây dựng nhà của, cầu cống, kết bè mảng đánh cá; làm nông cụ hoặc cư ngụ. Thân tre cũng được dùng chẻ nan để đan lát rổ rá, dụng cụ gia đình và làm hàng xuất khẩu. Ở Ấn Độ, thân lồ ô được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp sản xuất giấy. Măng ăn ngon nên được dùng khá phổ biến. Ở Bangladesh dùng lá tre làm thức ăn tạm thời cho gia súc lớn. Giá thông thường ở thị trường Bangladesh khoảng 2USD/cây tre. Kích thước trung bình của sợi thân tre lồ ô: chiều dài 2-21mm; chiều rộng sợi 24µm, chiều rộng khoang tế bào sợi 17µm, vách dày 3,2µm. Độ ẩm trung bình của thân tươi ở tuổi 2-5 giao động 97-146%. Tỷ trọng của thân tre lồ ô 2-5 tuổi là 0,46-0,69 (tre tươi). Thân tre trưởng thành trên 3 tuổi, biến đổi rất ít khi phơi ngoài không khí. Sau khi phơi khô, còn độ ẩm 12%, thì sự biến động của thân tre tươi từ 7-24% về độ dày của vách sợi và 2-11 % về đường kính . Thân tre tươi 3-5 tuổi, hong khô ngoài không khi có đặc điểm cơ lý sau: lực đàn hồi; 5.800- 1.600 N/mm2 (tươi) và 7.100-13.700 N/mm2 (hong khô ngoài không khí). Lực chẻ dọc 42,8- 89,0 N/mm2 (tươi) và 52,9- 99,0 N/mm2 (hong khô ngoài không khí); lực nén song song 24,2-42,7 (tươi) và 29,8-65,2 (hong khô ngoài không khí). Hình thái: Tre có thân ngầm mọc cụm, thân khí sinh thành búi dày đặc, đứng thẳng, cao 12-20m, đường kính 8- 12cm, lóng 25-30cm, thường lóng số 6-8 là dài nhất; vách dày 2cm ở gốc, khi non có phấn trắng và có lông nâu - xám, bẩn, bao phủ toàn bộ lóng. Đốt phồng, phấn trên và dưới vòng mo có vòng lông nâu xám, những đốt phía gốc mang vòng rễ. Cây phân cành thấp, những cành dưới gốc thường không mang lá, nhỏ và đôi khi cong lại như hình gai. Bẹ mo lớn, hình lưỡi xẻng, kích thước 15-35 x 15-40cm, ở những đốt thấp, bẹ mo thường ngắn và rộng ngang hơn các mo phía trên, sớm rụng, màu xanh khi non, lưng phủ nhiều lông nâu đen cứng, một bên mép có lông mi suốt chiều dài, còn một bên mép chỉ có lông mi ở phía trên của bẹ mo; khi già màu vàng rơm. Phiến mo đứng thẳng, 6-8 x 5-7cm, mặt bụng có lông đen, mép có lông mi; thìa lìa dạng màng, cao 5- 8mm, xê răng; tai mo nhỏ có lông mì hay không có tai mo. Măng màu xanh đen, có phủ nhiều lông đen cứng. Lá 7-9 cái, hình mác, kích thước 22(-15- 30) x 2,5(- 5)cm, nhẵn, mép lá có lông. Cụm hoa kép, chia nhánh nhiều, dài đến 1m, mang các cành có nhiều bông nhỏ. Bông nhỏ hình trứng hay hình lưỡi mác, bị ép dẹt, kích thước 6- 12 x 4-6mm, với 4-6 hoa hữu thụ và 0-2 hoa bất thụ. Chưa gặp quả. Phân bố: - Việt Nam: Đã gặp lồ ô trung bộ ở các tỉnh: Thừa Thiên - Huế (huyện Nam Đông), Quảng Nam (huyện Phước Sơn và Nam Giang) và tỉnh Kon Tum (huyện Sa Thầy). - Thế giới: Ấn Độ, Bangladesh. Ở Việt Nam và trên thế giới, loài tre này chỉ gặp trong trạng thái trồng trọt. Nhiều nhà khoa học cho rằng lồ ô trung bộ có nguồn gốc từ phía Bắc Ấn Độ và Băng La Đét, ở đó chúng được trồng rất nhiều. Loài tre này cũng được trồng ở nhiều vườn thực vật ở Australia và lndonesia . . . Đặc điểm sinh học: Cây mọc trong vùng có khí hậu nhiệt đới mưa mùa, với mùa mưa và mùa khô khá rõ. Mùa mưa thường kéo dài tới 6-8 tháng và lượng mưa cao 2.000-4.000 mm. Mới gặp loài tre này trồng ở phần Trung Bộ nước ta tại 3 tỉnh Thừa Thiên - Huế (phía Tây Nam), Kontum và Quảng Nam (phía Tây), đặc biệt tập trung nhất ở huyện Nam Đông (Thừa Thiên - Huế), một trong 3 vùng có lượng mưa cao nhất Việt Nam. Ở đây lồ ô trung bộ được trồng quanh nhà, ven sông suối, trong vườn rừng...Lồ ô trung bộ thích hợp với các loại đất phù sa mới và phù sa cổ ven sông, dưới chân núi có tầng dày, thoát nước và hơi chua (độ pH = 5,5). Độ cao nơi trồng không quá 600m so với mặt biển. Măng lô ô xuất hiện vào đầu mùa mưa và hoàn thành giai đoạn phát triển của cây trong vòng 2-3 tháng. Sự phát triển của cành đồng thời với sự phát triển của thân tre, vì khi cây không tăng chiều cao nữa thì cành cũng không dài thêm. Cây dưới 3 năm tuổi còn sinh măng và hình thành tre mới; cây trên 3 tuổi không sinh măng nữa nên có thể khai thác. Thí nghiệm trồng tre lồ ô trung bộ ở Bangladesh cho thấy, sau khi trồng, để nguyên bụi tre, không tác động gì thì đường kính của bụi tre tăng từ 9,5cm ở năm thứ nhất đến 80cm ở năm thứ 5 và 130cm ở năm thứ 10. Số lượng thân tre trưởng thành trong mỗi búi tăng từ 1 thân trong năm đầu; 3 thân trong vòng 5 năm và sau đó tăng thêm 2 thân/năm trong những năm còn lại. Tăng trưởng chiều cao lần lượt là 2,5m trong năm đầu, tới khoảng 23m trong năm thứ 7 và khoảng 22m trong những năm còn lại. Tăng trưởng đường kính trung bình tăng từ 1,5cm trong năm đầu và sau đó tăng đến 8cm trong năm thứ 7 và các năm sau. Đây là loài cây ưa sáng hoàn toàn, vì vậy muốn trồng lồ ô trung bộ phải chọn nơi đất quang trống, không có bóng che của các loài cây gỗ hoặc các loài tre khác. Cây mọc khỏe, rất ít sâu bệnh. Chỉ mới phát hiện loài côn trùng cánh cứng đẻ trứng vào măng non, nhưng không phổ biến. Mới gặp lồ ô trung bộ ra hoa từng cây hoặc từng bụi; chưa gặp hiện tượng tre ra hoa hàng loạt cũng như chưa gặp hạt của loài tre này. Ở Bangladesh đă có hiện tượng tre lồ ô khuy, chu kỳ khuy khoảng 35-45 năm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf25_1873.pdf