Lạm phát - Nguyên nhân gây bất ổn nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam

Ngày nay, lạm phát đang tác động đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt

Nam. Lạm phát được ví như “con dao hai lưỡi”, vừa có lợi lại vừa có hại. Song mặt lợi thì

rất ít, chủ yếu các nước đón nhận lạm phát với một tư thế gò bó không mong muốn. Bởi

vì lạm phát có thể làm các hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt. Mặt khác, nó còn gây bất ổn

nền kinh tế vĩ mô, hoạt động đầu tư bị chững lại, làm méo mó qúa trình phân bố nguồn

lực. Vì thế, lạm phát được xem như một loại thuế đánh vào nền kinh tế. Theo lẽ thông

thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều

tốt. Do đó, các quốc gia đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh thì có thể chấp nhận một tỉ lệ

lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển. Tình trạng lạm phát có thể coi là căn bệnh

kinh niên kéo dài, đeo đẳng nền kinh tế nước ta. Vì vậy, kiềm chế lạm phát luôn là một

bài toán khó đặt ra cho các nhà lãnh đạo mà quá trình giải nó dài hay ngắn là tuỳ thuộc

vào trí tuệ mỗi người.

pdf8 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 10/05/2022 | Lượt xem: 663 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Lạm phát - Nguyên nhân gây bất ổn nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LẠM PHÁT - NGUYÊN NHÂN GÂY BẤT ỔN NỀN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM Nguyễn Thị Hằng * , Lê Tiến Dũng Khoa Công nghệ thông tin - Đại học Thái Nguyên, Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Ngày nay, lạm phát đang tác động đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Lạm phát được ví như “con dao hai lưỡi”, vừa có lợi lại vừa có hại. Song mặt lợi thì rất ít, chủ yếu các nước đón nhận lạm phát với một tư thế gò bó không mong muốn. Bởi vì lạm phát có thể làm các hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt. Mặt khác, nó còn gây bất ổn nền kinh tế vĩ mô, hoạt động đầu tư bị chững lại, làm méo mó qúa trình phân bố nguồn lực. Vì thế, lạm phát được xem như một loại thuế đánh vào nền kinh tế. Theo lẽ thông thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó, các quốc gia đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh thì có thể chấp nhận một tỉ lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển. Tình trạng lạm phát có thể coi là căn bệnh kinh niên kéo dài, đeo đẳng nền kinh tế nước ta. Vì vậy, kiềm chế lạm phát luôn là một bài toán khó đặt ra cho các nhà lãnh đạo mà quá trình giải nó dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào trí tuệ mỗi người. Từ khoá: Lạm phát, kinh tế vĩ mô, con dao hai lưỡi, bàn tay vô hình, bàn tay hữu hình.  Ngày nay, lạm phát không chỉ là nguy cơ đối với Việt Nam mà còn là mối đeo đẳng đến toàn châu Á, gây đau đầu các cường quốc lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc Vì vậy, nghiên cứu lạm phát để tìm cách kiềm chế nó trong tầm kiểm soát là bài toán nan giải của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Khái niệm về lạm phát Trước hết, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian mức giá trung bình của hàng hóa và dịch vụ so với thời điểm trước đó. Tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hóa vào hai thời điểm khác nhau với giả thiết chất lượng không thay đổi. Khi hàng hóa và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với  Nguyễn Thị Hằng, Tel: 0987 118 623, Eemail: nvhuan@ictu.edu.vn sức mua của đồng tiền giảm đi, và cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hóa ít hơn so với năm trước. Khi xác định nền kinh tế có lạm phát hay không, người ta quan tâm đến sự tăng giá chung chứ không phải sự giao động đột ngột của mức giá chung. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số giá chung của giá cả, đó là chỉ số giá tiêu dùng CPI. Chỉ số lạm phát của một thời kỳ được tính bằng: Chỉ số CPI sẽ thể hiện sự biến động của chi phí sinh hoạt, sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát. Tình hình lạm phát ở Việt Nam Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tình trạng lạm phát có thể coi là căn bệnh kinh niên kéo dài, đeo đẳng nền kinh tế nước ta. Hơn 20 năm trước, trong tình thế một nước vừa thoát ra khỏi chiến tranh kéo dài có nền kinh tế cực nghèo, lại đang trong thế bị bao vây cấm vận của Mỹ, những người bạn xã hội chủ nghĩa Liên Xô cũ và Đông Âu thì đang gặp khủng hoảng toàn diện dẫn đến nguy cơ tan rã, thế nhưng với đường lối Đổi mới của Đại hội VI (1986) và nhất là với những cách tân tiếp theo của Đại hội VII (1991) của Đảng, chúng ta đã “đại thắng” trong “cuộc chiến chống lạm phát”. Thành tựu mà chúng ta đạt được là đẩy tốc độ lạm phát từ “đại lạm phát” 3 con số (800%) năm 1986 và GDP chỉ tăng 2,8%, đã giảm xuống dần chỉ còn 5,2% năm 1993, trong khi đó tăng trưởng GDP đã đạt đến 8,1%. Nhờ đó, tạo đà cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển, về cơ bản là khả quan, tích cực suốt hơn 20 năm vừa qua. Thành công lớn về chống lạm phát đó đã khiến cho thế giới kinh ngạc và khâm phục, song điều quan trọng hơn chính là đã để lại cho chúng ta một bài học kinh nghiệm rất quý về cách phòng và chống lạm phát mà thiết nghĩ nên ôn lại để ngẫm nghĩ và vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn hiện nay. Tỉ lệ lạm phát Việt Nam thời kỳ 1986-1993 Như đã biết, tăng trưởng cao, lạm phát thấp và một số chỉ số cơ bản khác của kinh tế vĩ mô như cán cân thương mại, thu chi ngân sách, cán cân thanh toán quốc tế nếu đều đạt giá trị dương (có số dư)... thì đó là những tín hiệu phát triển khả quan, mong muốn của mọi nền kinh tế. Giữa các chỉ số này có quan hệ tác động tương hỗ chặt chẽ, nhất là giữa tăng trưởng và lạm phát. Thông thường, tính quy luật là: tăng trưởng cao thì lạm phát thấp; khi lạm phát cao quá hoặc thiểu phát đều làm cho tăng trưởng thấp. Song tính quy luật này có những khác biệt tuỳ theo trình độ phát triển cũng như các đặc điểm riêng biệt của mỗi nền kinh tế. Với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, khi mặt bằng giá trong nước còn thấp hơn nhiều so với mặt bằng giá thế giới thì lạm phát ở mức ngang bằng, thậm chí cao hơn tăng trưởng kinh tế một chút thì chưa phải là lo ngại lớn. Bởi vì khi mà xu hướng tăng giá đang còn diễn ra từ từ ở mức thấp (trung bình khoảng 1-2%/năm đối với các nước phát triển, 4-6%/năm với các nước đang phát triển) thì dù lạm phát có xảy ra như vậy cũng chưa thể là đe doạ đến phát triển kinh tế, cho dù có làm chậm hơn tăng trưởng kinh tế. Xin đưa ra số liệu hai năm gần đây là 2006 và 2007 để minh chứng rõ hơn về luận giải này. Năm 2006, CPI tăng 6,6% nhưng GDP tăng 8,2%, có nghĩa lạm phát vẫn tăng nhưng mức tăng còn chậm hơn tăng trưởng kinh tế. Đó là biểu hiện tốt của sự phát triển. Nhưng sang năm 2007, mặc dù tăng trưởng GDP đã đạt mức kỷ lục nhưng CPI lại tăng vọt đến mức khá cao là 12,63%. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tính đến tháng 10 năm 2007 đã lên đến 9,34% so với cùng kỳ năm trước, nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng cũng có sự gia tăng và đạt tới con số 12%. Các mặt hàng khác ở cùng thời điểm tăng 5%. Điều này cho thấy sự tăng giá chung của tất cả các mặt hàng. Thực chất của tình trạng lạm phát chính là sự giảm mã lực của đồng tiền. Đồng nghĩa với nó là sự leo thang của giá cả hàng hóa, khiến cho thị trường liên tục biến động. Do đó, gây bất lợi cho tăng trưởng lẽ ra có thể cao hơn nữa, mặt Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên khác là đã làm xáo động đến mặt bằng giá cả hàng hoá, ảnh hưởng xấu trực tiếp đến sản xuất và đời sống nhân dân. Để xảy ra như vậy là không tốt. Tuy nhiên, xét theo tính quy luật chung thì cũng không nên quá bi quan, quá lo ngại vì đó là động thái dễ xảy ra với hầu hết các nền kinh tế thị trường dù là ở trình độ phát triển nào. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Về mặt lý thuyết, lạm phát có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở mức độ nhẹ và trong tầm kiểm soát của chính phủ, lạm phát sẽ có lợi cho tăng trưởng (ở mức 1 con số). Điều này cho thấy hàng năm chính phủ có thể phát hành thêm một lượng tiền mới để chi phí cho những chương trình công cộng hoặc giải quyết thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy cao tổng sản lượng quốc dân GDP lên thêm một mức. Một chút lạm phát cũng khiến doanh nghiệp kiếm thêm lợi nhuận vì thông thường từ khâu nhập nguyên liệu (giá trước lạm phát) đến lúc hoàn thành sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho doanh vụ. Ngoài những trường hợp kể trên, bao giờ lạm phát cũng có ảnh hưởng xấu đối với kinh tế. Mặt khác, nó còn làm bất ổn nền kinh tế vĩ mô, giá cả thay đổi, hoạt động đầu tư bị chững lại, làm méo mó qúa trình phân bố nguồn lực. Vì thế, lạm phát được xem như một loại thuế đánh vào nền kinh tế. Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho phép của nền kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính phủ sử dụng khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hi vọng sang năm kinh tế tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn. Vậy tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải với một nền kinh tế? Điều đó cũng tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng quốc gia khác nhau. Theo lẽ thông thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó, các quốc gia đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh (tỉ lệ phát triển sấp sỉ 10%) thì có thể chấp nhận một tỉ lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ phát triển dưới 5% ). Hiện nay, có quan điểm cho rằng nước ta nên đặt ra mức lạm phát thấp hơn tăng trưởng. Theo ý chủ quan, không nên đặt mục tiêu này vì nó không có cơ sở khoa học về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn. Mục tiêu có thể đạt được của lạm phát ở nước ta hiện nay là từ 14-15%. Nếu chúng ta đặt ra và ràng buộc mục tiêu lạm phát lúc này thì e nền kinh tế sẽ bị cuốn vào nỗi lo “con rồng giựt đứt giây xích” như một số chuyên gia nhận định. Chúng ta nên học tập cách chống lạm phát kiểu Mỹ. Chính phủ nước này giao quyền theo dõi và dự báo lạm phát cho ngân hàng Trung ương để họ có thể chủ động, kịp thời đề ra biện pháp thích nghi khi cần thiết. Khi thấy có dấu hiệu lạm phát thì tăng lãi xuất, kìm hãm sản xuất lại, không để lạm phát có cơ hội phát triển. Đối với các quốc gia công nghiệp mà xã hội đã chuyển qua dạng xã hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình 3 bước: Lạm phát - Giảm phát – Suy thoái kinh tế. Còn đối với các quốc gia đang phát triển nói chung, tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng trưởng kinh tế. Ví dụ theo CIA, World Factbook, năm 2005, Việt Nam tăng trưởng kinh tế 8,4% nhưng tỉ lệ lạm phát lên tới 8,3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4% nhưng đời sống sinh hoạt mắc hơn 8,3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy được gì. Tiêu chuẩn đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên pháp ngăn chặn , lạm phát sẽ làm tê liệt dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại tệ mạnh để tránh lạm phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền kinh tế. Ai là nạn nhân của lạm phát? Cái giá của lạm phát: lạm phát tác động đến các đối tượng khác nhau theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Lạm phát sẽ khiến các công ty và người tiêu dùng giảm chi tiêu, sẽ ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra của nền kinh tế trong dài hạn.Tuy nhiên, thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là người về hưu bởi lương hưu là ổn định, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã tăng lên gấp nhiều lần. Vì vậy, lạm phát sẽ làm giảm sức mua, dẫn đến giảm mức sống của họ. Kế đến là những người gửi tiền tiết kiệm, bởi sự mất giá của đồng tiền khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm “đánh mất của cải” một cách nhanh chóng. Một đối tượng chịu thiệt thòi nữa là những người cho vay nợ: khoản nợ trước đây có thể mua được một món hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn. Nhóm người cuối cùng cũng phải chịu hậu quả đó là những người nghèo trong xã hội (có thu nhập dưới 1 USD/ngày). Một số nguyên nhân và biện pháp để kiềm chế lạm phát Nguyên nhân của nạn lạm phát là vấn đề lớn, phức tạp, chưa thể luận giải kỹ trong một khuôn khổ hạn định. Song, nhìn ở những nét tổng quan nhất từ kinh nghiệm thực tiễn đã xảy ra đối với tất cả nền kinh tế dù ở trình độ phát triển nào và ở thời điểm nào để liên hệ vào thực tiễn Việt Nam thì rõ ràng là kinh tế nước ta vừa qua mặc dù tăng trưởng ở mức cao nhưng vẫn còn mất cân đối ở nhiều mối quan hệ cơ bản: sản xuất và tiêu dùng; hàng và tiền, thu và chi ngân sách, xuất và nhập khẩu. Có một số nhóm nguyên nhân chính trực tiếp dẫn đến những mất cân đối đó. Thứ nhất, xét về mặt khách quan của nạn lạm phát là do tác động từ bên ngoài (nền kinh tế thế giới), tức là giá cả các mặt hàng trên thế giới tăng cao, nền kinh tế Mỹ bị suy thoái, đồng USD tiếp tục mất giá, tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh, dịch bệnh... Đây là những nguyên nhân khách quan bất khả kháng và chúng ta chỉ có giải pháp là dùng cơ chế, chính sách và sự quyết tâm để khắc phục. Nhóm nguyên nhân thứ hai quan trọng nhất là do sai lầm chủ quan của chúng ta trong các chính sách về tài chính - tiền tệ, nhất là trong việc đưa tiền ra lưu thông đã chưa có đủ các biện pháp, cơ chế điều tiết hợp lý và kịp thời. Như vây, nạn lạm phát ở nước ta xảy ra có nguyên do từ sự yếu kém vốn có của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện, nền công nghiệp còn mang nặng tính tài nguyên, giá trị sản xuất công nghiệp thấp, nguồn đầu tư còn dàn trải và thất thoát Mặt khác, công tác dự báo và dự kiến các biện pháp, kế hoạch để ứng phó với những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập chưa được quan tâm đúng mức Có thể thấy mối liên hệ giữa lạm phát và các tập đoàn kinh tế là rất lớn. Các tập đoàn lớn như VNPT, EVN, tập đoàn cao su VRG, Vinashin đều có xu hướng tăng cường đa dạng hóa đầu tư. Mặt tích Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên cực thì đã rõ, nhưng mặt trái của xu hướng này là kinh doanh đa ngành sẽ làm mất đi lợi thế so sánh và góp phần trực tiếp vào việc gia tăng lạm phát bởi sự đầu tư chỉ tập trung vào hạ tầng nên sẽ làm tăng lượng tiền lưu thông và chênh lệch cung cầu, tức là làm tăng lạm phát tiền tệ và lạm phát cơ cấu. Mặt khác, hậu quả kinh doanh và đầu tư của các tập đoàn thường thấp, lại mang tính chất cơ hội vì các dự án thường ngắn hạn nên rủi ro cao. Do đó, phải ngăn chặn sự liên minh của các tập đoàn trong việc vay và cho vay vốn, đầu tư đa ngành. Như vậy, lạm phát ở Việt Nam hiện nay là kết quả tổng hợp của một số hiện tượng kinh tế đặc thù đi liền với sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa một số chính sách vĩ mô. Bên cạnh đó, nước ta vốn là nước có kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Do đó, Mặt bằng giá hậu 'sốt' gạo sẽ kích lạm phát ở mức cao hơn. Vì vậy, các công ty lương thực của tỉnh có đất, có ruộng nên tổ chức nông dân thành lập các tập đoàn sản xuất. Mục đích là tạo ra lúa nguyên liệu đồng nhất về chủng loại, chất lượng, có giá thành hạ. Mặt khác, Tổng công ty lương thực phải có nguồn hàng ổn định, nắm được sản lượng thực tế và chất lượng lúa. Thông qua tổng công ty này, Nhà nước sẽ nắm được tình hình chung. Làm được điều này, Chính phủ không sợ việc làm giá, đầu cơ của một số thương lái, tư nhân kinh doanh gạo. Có thể nói, nông nghiệp là một căn cứ chống lạm phát nhưng hiện đang bị bỏ quên. Thật vậy, nông nghiệp là căn cứ vững chắc nhất để chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Nhưng việc quan tâm bảo vệ và đầu tư cho căn cứ này đã bị xao lãng trong nhiều năm nay. Trong đợt lạm phát sau năm 1986, chính sách tiền tệ là liệu pháp mạnh nhất, kết quả nhanh nhất. Nhưng chính thành công trong nông nghiệp là nhân tố căn bản ổn định. Gia tăng sản xuất nông nghiệp, lương thực, ổn định nông thôn là ổn định được đại cục. Năm 1989 Việt Nam xuất khẩu hơn 1 triệu tấn gạo, không chỉ có được ngoại tệ cân đối nhập khẩu, mà điều quan trọng hơn là khẳng định nhu cầu lương thực được đảm bảo, tạo được niềm tin trong xã hội vào chính sách. Tốc độ tăng CPI năm 1989 giảm xuống còn 2 chữ số (35%). Trong vòng 7 năm, từ 2001 - 2007, tổng diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp lên tới 500.000 ha, bằng 5% quỹ đất nông nghiệp. Đáng ngại là xu hướng chuyển dịch nhanh diễn ra ở 2 vùng đồng bằng lớn liên quan đến sản xuất lương thực. Nhưng điều đáng nói hơn là đất chuyển sang sử dụng công nghiệp cũng chưa thực sự có hiệu quả. Bình quân cả nước thì diện tích đất (các khu công nghiệp) cho thuê đạt tỉ lệ 50%, nhưng đó là so với đất có hạ tầng, có đủ điều kiện cho thuê. Còn nếu so với diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, thì tỉ lệ sử dụng mới chỉ đạt 33%. Có một nghịch lý lớn: Nếu như đất trồng lúa bắt đầu giảm từ nơi có năng suất thấp nhất, thì kết quả cuối cùng chỉ còn lại những vùng đất xấu, khó khăn mới trồng lúa. Từ nay đến 2010 sản xuất và xuất khẩu vẫn còn tốt. Đến năm 2015, sản xuất đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng, nhưng dư thừa để xuất khẩu có thể không nhiều. Sau năm 2020 vấn đề tùy thuộc vào quỹ đất được duy trì đến mức độ nào và những tiến bộ về năng suất thay đổi ra sao. Bài học từ các quốc gia trong vùng rất đáng để nước ta suy nghĩ. Philippines, Indonesia cũng đã từng là các nước sản xuất gạo lớn (Indonesia đã từng cho Việt Nam vay mượn 100 nghìn tấn gạo trong các năm 1987-1988) thì nay đã trở thành nước nhập khẩu. Trung Quốc đang đối phó với nạn mất đất nông nghiệp và lo lắng về an ninh lương thực đến mức phải Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tìm kiếm nguồn đất từ nước ngoài thuê để trồng trọt. Điều này nhắc nhở về sự quan tâm với các vấn đề khoa học, nghiên cứu ứng dụng và đầu tư nông nghiệp cũng như nông thôn. Mặt khác, hiện nay, việc đầu tư cho nông nghiệp không thỏa đáng. Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn thấp đã ảnh hưởng tới tốc độ phát triển và chất lượng sản phẩm nông nghiệp và nền công nghiệp thực phẩm. Năm 2000, vốn đầu tư vào nông nghiệp là 17,2 nghìn tỉ đồng chiếm 11,4% trong tổng vốn đầu tư, năm 2006 chỉ còn 5,5%. Trong tổng số chi tiêu công từ 1997-2002 thì phần chi cho nông nghiệp chỉ chiếm 6%; trong đó thủy lợi chiếm đến 60%. Theo một khảo sát của Ngân hàng Thế giới, chi cho công tác nghiên cứu có hiệu quả cao nhất vào nông nghiệp, thế nhưng chỉ chiếm chưa đầy 2%, phần lớn là chi trả lương, chi tiêu hành chính. Môi trường kinh doanh lâu nay Chính phủ nỗ lực nhưng hầu như mới chỉ đến khu vực đô thị, với nông nghiệp và nông thôn thì vẫn chưa. Số doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp chỉ chiếm chưa đầy 1% tổng số doanh nghiệp cả nước, FDI trong nông nghiệp cũng chưa đến 5% tổng FDI. Ngay ở Đồng bằng sông Cửu Long với 21% dân số nhưng chỉ đạt 16,5% tổng vốn đầu tư từ ngân sách. Đầu tư thấp mà yêu cầu phải có mức tăng trưởng cao và cải thiện chất lượng sản phẩm, cải thiện nông thôn là điều không thể. Các con số này cho thấy Việt Nam chưa có sự chuẩn bị tốt cho việc hội nhập vào WTO, đó cũng là lỗ hổng lớn trong chính sách đảm bảo cho sự bền vững của nền kinh tế. Có thể nói rằng, lạm phát ở nước ta hiện nay nên được xem xét thẳng thắn và có căn nguyên từ chính sách tiền tệ. Do đó, chính sách chống lạm phát nên mang tính chất tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc hạn chế chính sách tài khóa bằng cách giảm thuế một số mặt hàng tăng nhanh hay kêu gọi hỗ trợ từ phía người dân. Tuy nhiên, đấy chỉ là các biện pháp tạm thời, che đậy bản chất thực sự của lạm phát. Biện pháp gốc rễ của vấn đề là phải giảm tốc độ tăng tiền và ứng dụng. Điều đó sẽ giúp san sẻ chi phí chống lạm phát một cách bình đẳng hơn. Mặt khác, để đối phó với “cơn bão giá” hiện nay, bên cạnh các biện pháp mà chúng ta đã thực hiện, cần phải thực hiện một cách đồng bộ một số giải pháp mang tính chiến lược mà trước hết vẫn là vấn đề tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước đã có chủ chương rút về một khối lượng nguồn tiền đang ứ động ở ngoài để tránh lạm phát. Như năm 2007 chúng ta đã bỏ ra khối lượng tiền Việt Nam lớn để mua vào 9 tỷ USD và mới thu về được khoảng 70%. Tiếp theo là việc điều chỉnh lại mức cho vay (năm 2007 cho vay 47%, năm 2008 chỉ khoảng 30%), đưa lãi suất tăng lên, tìm mọi cách để rút lại nguồn tiền thừa rút, cụ thể là thông qua việc tăng lãi suất... Thứ hai là đưa ra các giải pháp xem xét lại về cơ cấu đầu tư, kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá. Thứ ba là công tác tuyên truyền, giải thích cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ hơn về hậu quả của lạm phát và các giải pháp đã được đưa ra nhằm giảm bớt những tác động của tâm lý, giúp ổn định xã hội. Nhìn chung các biện pháp tiền tệ, tâm lý, đầu tư, ngân sách... trên đây đều đang được thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có những biện pháp nhằm khắc phục những hệ lụy của năm trước đó là việc tăng nhanh đến mức “quá nóng” của các thị trường chứng khoán, bất động sản, vàng đã dẫn đến gia tăng tình trạng đầu cơ ở các thị trường này, những hậu quả của thiên tai, dịch bệnh... Ngoài ra, phải triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội Hiện nay, nhà nước ta đang đề ra giải pháp điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng để tập trung kiềm chế lạm phát. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu hiện nay là kiềm chế bằng được lạm phát, bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Giải pháp này bước đầu đã cho ta kết quả khả quan. Tuy nhiên những thách thức, khó khăn ở phía trước vẫn còn rất lớn. KẾT LUẬN Chắc chắn rằng, còn rất nhiều khó khăn, thách thức lớn đặt ra cho nền kinh tế nước ta trước “cuộc chiến chống lạm phát’. Song quyết tâm cao của Chính phủ với vai trò “bàn tay hữu hình” kiểm soát, điều tiết đúng đắn, chặt chẽ hơn, chúng ta tin rằng những biểu hiện bất ổn về tình hình lạm phát gia tăng mà thực chất là do những tác động mang tính quy luật và cả không quy luật bởi “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường điều khiển sẽ từng bước khắc phục và bị đẩy lùi. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. D. Begg, S. Fischer, R. Dornbush(1991), Economics, Third Edition, Me Graw – Hill book. [2]. Nguyễn Văn Công(2005), Bài giảng và thực hành kinh tế vĩ mô, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội. [3]. N. Gregory Mankiw(1999), Kinh tế vĩ mô (Macroeconomics), NXB Thống Kê, Hà Nội. [4]. P. Samuelson and W. Nordhaus(1989), Kinh tế học, Viện quan hệ quốc tế, Hà Nội. [5]. T.S Vũ Như Vân(2009), Những vấn đề kinh tế học phát triển, ĐHSP Thái Nguyên. Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 59(11): 10 - 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên SUMMARY INFLATION – THE CAUSE OF UNSTABLENESS OF VIETNAM’S MACROECONOMICS Nguyen Thi Hang, Le Tien Dung Aculty of information technology, Thai Nguyen university Nowadays, inflation is affecting many countries in the world, Vietnam is in that case. Inflation is considered as “a double-edged sword”, both advantageous and harmful. Because of its serious disadvantages, all of the countries in the world consider inflation as an unexpected issue causing serious unstableness and slow investment to the macroeconomics. On the other hand, the process of resource distribution is sharply affected owing to the inflation. Inflation is considered as a kind of tax touching the economy. It is said that the economy will be in stable status if the inflation rate is controlled at a level lower than the growth rate. High inflation rate is acceptable in the growing countries, not for the developed ones. Therefore, how to keep the inflation rate controlled raises a difficult question for the leaders. Keywords: Inflation, Macroeconomics, a double-edged sword, Invisible hand, visible hand.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflam_phat_nguyen_nhan_gay_bat_on_nen_kinh_te_vi_mo_cua_viet_n.pdf