Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là một trong
những bệnh ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhân
dân, đặc biệt là trẻ em ở các tỉnh miền Bắc. Hiện nay
đang là giữa mùa của bệnh VNNB, rất nhiều trường
hợp đã phải nhập viện. Cùng với những cố gắng của
công tác tiêm chủng mở rộng (TCMR), những hiểu
biết về bệnh của cộng đồng để cùng ngành y tế phòng
bệnh là điều rất cần thiết
7 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Làm gì trong “mùa” viêm não Nhật Bản?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Làm gì trong “mùa” viêm não Nhật Bản?
Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là một trong
những bệnh ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhân
dân, đặc biệt là trẻ em ở các tỉnh miền Bắc. Hiện nay
đang là giữa mùa của bệnh VNNB, rất nhiều trường
hợp đã phải nhập viện. Cùng với những cố gắng của
công tác tiêm chủng mở rộng (TCMR), những hiểu
biết về bệnh của cộng đồng để cùng ngành y tế phòng
bệnh là điều rất cần thiết.
Nhận biết bệnh VNNB
Bệnh VNNB là bệnh nhiễm virut cấp tính ở hệ thần
kinh trung ương do virut VNNB lây truyền từ nguồn
bệnh đến người qua muỗi đốt. Bệnh đã được biết từ
năm 1871, nhưng mãi đến năm 1935 người ta mới
phân lập được virut từ não của người bệnh ở Tokyo,
Nhật Bản và năm 1938 Mitamura đã phân lập được
virut VNNB ở muỗi vectơ C. tritaeniorhynchus. Đến
năm 1959 những nghiên cứu ở Nhật Bản đã xác định
ổ chứa virut là chim, lợn và muỗi C.
tritaeniorhynchus là vectơ truyền bệnh VNNB giữa
các động vật có xương sống và từ đó truyền sang
người.
Đường truyền bệnh của virut viêm não Nhật Bản.
Người bị muỗi nhiễm virut VNNB đốt sẽ trải qua thời
kỳ ủ bệnh từ 5-15 ngày. Thời kỳ phát bệnh thường
kéo dài từ 1-6 ngày. Tuy nhiên có thể ngắn hơn trong
24 giờ và dài hơn tới 14 ngày. Bệnh bắt đầu đột ngột
với triệu chứng sốt, mệt mỏi toàn thân, đau đầu, đau
cơ, run, buồn nôn, nôn, sau đó cứng gáy và có dấu
hiệu thần kinh.
Giai đoạn viêm não cấp tính:
Đặc điểm lâm sàng nổi bật trong giai đoạn này là tiếp
tục sốt, cứng gáy, có dấu hiệu thần kinh trung ương
khu trú, co giật, thay đổi cảm giác và nhiều trường
hợp dẫn tới hôn mê. Thường sốt cao từ 38 - 40oC,
nhịp tim tương đối chậm, nét mặt của người bệnh
được mô tả như xám xịt, thẫn thờ, buồn tẻ, đôi mắt sợ
sệt, nhìn chòng chọc (giống như bệnh parkison mạn
tính) và giọng nói khàn, lè nhè, nói khó, nghe khó.
Dấu hiệu thần kinh như cứng gáy chiếm tới 80%
trường hợp. Run là dấu hiệu thường gặp và thường
thấy ở ngón tay, lưỡi, mi mắt và mắt. Co giật cũng là
một đặc điểm lâm sàng thường gặp ở bệnh VNNB,
nhất là ở trẻ em. Có thể có cơn động kinh toàn thân
với những cử động run giật lặp đi lặp lại rất dữ dội.
Một số trường hợp có cơn cường cơ làm cho trẻ uốn
cong người và co đầu lại, hai chân dạng ra và hai tay
gập lại ở góc khuỷu. Những cơn co giật cục bộ cũng
thường gặp.
Giai đoạn sau:
Bệnh nhân có thể được hồi phục và thời kỳ này thông
thường diễn biến chậm, bệnh nhân có thể được hồi
phục các chức năng vận động, nhưng tri thức lại
không bình thường. Phần lớn di chứng để lại cho
người bệnh là những rối loạn về tinh thần, mất ổn
định về tình cảm, cá tính thay đổi, liệt thần kinh vận
động ở chi trên hoặc chi dưới. Hiện tượng thất ngôn
và loạn tinh thần có hệ thống thường ít gặp. Tỷ lệ tử
vong thay đổi từ 0,3-60% tùy theo trình độ kỹ thuật
hồi sức cấp cứu chống phù não, suy hô hấp, trụy tim
mạch và bội nhiễm vi khuẩn.
Điều trị bệnh VNNB
Cho đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh
VNNB, vì vậy điều trị trợ sức và điều trị triệu chứng
là chủ yếu. Người ta không dùng gammaglobulin và
corticosteroid để điều trị vì không có tác dụng. Tỷ lệ
tử vong có thể giảm xuống là do việc chăm sóc bệnh
nhân đúng đắn. Bệnh nhân phải được chuyển đến
bệnh viện để điều trị. Không cần thiết phải cách ly
bệnh nhân và khử khuẩn các chất tiết của người bệnh
vì virut VNNB không truyền từ người sang người qua
chất bài tiết.
Các biện pháp phòng ngừa bệnh VNNB
Virut VNNB được lây truyền qua muỗi vectơ hút
máu súc vật, do đó những súc vật hoang dại và súc
vật nuôi trong nhà là vật chủ chính. Người được coi
là vật chủ cuối cùng đối với virut VNNB, vì trong
máu người virut VNNB tồn tại thời gian ngắn với
hiệu giá thấp và muỗi vectơ thích hút máu súc vật
hơn là máu người. Bệnh VNNB có thể được dự
phòng bởi sự phối hợp của các biện pháp phòng trừ
vectơ, ngăn ngừa vectơ, gây miễn dịch cho súc vật và
cho người cảm nhiễm.
Phòng trừ vectơ
Việc sử dụng hóa chất diệt vectơ VNNB nói chung là
có hiệu quả nhưng chỉ được giới hạn trong một không
gian và thời gian nhất định với giá thành rất cao. Ở
Hàn Quốc người ta phun fenitrothion với thể tích cực
nhỏ bằng máy bay đã có hiệu quả làm giảm mật độ C.
tritaeniorhynchus trưởng thành khoảng 80% trong 4
ngày.
Việt Nam là nước nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa
nước. Vì vậy việc phòng trừ vectơ VNNB lại càng
khó khăn hơn không chỉ vì thiếu tiền mua máy móc,
hóa chất mà còn vì những cánh đồng lúa rộng lớn
chứa đựng quần thể muỗi vectơ phong phú này. Do
đó biện pháp phòng trừ bệnh VNNB bằng phòng trừ
vectơ, kể cả dùng hóa chất là hoàn toàn không thực tế
và không có hiệu quả.
Tiêm chủng là biện pháp phòng bệnh quan trọng
nhất.
Gây miễn dịch phòng bệnh là biện pháp phòng bệnh
hữu hiệu nhất, điều đó đã được chứng minh ở tất cả
các quốc gia sử dụng vaccin VNNB để phòng bệnh.
Ở Việt Nam những năm qua nơi nào có sự bao phủ
của vaccin này ở đó giảm rõ rệt số trẻ mắc bệnh.
Chính vì vậy các bậc cha mẹ nên chủ động đưa trẻ đi
tiêm chủng phòng bệnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31_6551.pdf