1. Đặt vấn đề
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, dự báo trong những
năm tới (giai đoạn 2017 - 2025), lực lượng lao động Việt Nam tăng bình quân hằng
năm 1,28%, tương ứng 723.000 người/năm. Quy mô lực lượng lao động tăng từ
55,54 triệu người năm 2016 lên 62 triệu người năm 2025. Nhưng tính tới năm 2016,
trong tổng số 55,54 triệu lao động của cả nước, chỉ có hơn 11,21 triệu lao động qua
đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ, chiếm 20,6%. Đáng lưu ý, lao động được đào tạo
trong các ngành kỹ thuật, công nghệ cao còn chiếm tỷ trọng thấp. Để đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực được qua đào tạo, bên cạnh mô hình đào tạo truyền thống như
hiện nay thì mô hình đào tạo cấp bằng trực tuyến (E-Learning) là một xu thế tất yếu
của giáo dục đại học.
Theo báo cáo tại diễn đàn hàng đầu châu Á về công nghệ giáo dục Edtech Asia
Summit 2016, có 50% trong tổng số hàng trăm triệu sinh viên đại học ở châu Á sẽ
theo học các khóa trực tuyến trong 10 năm tới. Báo cáo cho rằng, các trường đại học
tốp đầu tham gia cung cấp các khóa học và chất lượng tương tự hoặc thậm chí tốt
hơn các chương trình truyền thống. Các báo cáo cũng cho thấy 61% trong 4.800
trường đại học và cao đẳng tại Mỹ có sinh viên đăng ký học chương trình trực tuyến,
71% các nhà lãnh đạo giáo dục tại Mỹ tin rằng giáo dục trực tuyến có hiệu quả tương
tự hoặc cao hơn so với các khóa học truyền thống.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghê ̣ thông tin và truyền thông đã thúc đẩy
đào tao tr ̣ ưc tuy ̣ ến (E-Learning) ra đời và phát triển. Nó kéo theo cuôc c ̣ ách mang v ̣ ề
day v ̣ à hoc, tr ̣ ở thành môt xu th ̣ ế tất yếu của thờ i đai v ̣ à đang “bùng nổ” ở nhiều nước
đã và đang phát triển. E-Learning là một phương thức đào tạo hiện đại dựa trên công
nghệ thông tin. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện nay, E-Learning ngày
càng đươc ưa chu ̣ ông b ̣ ở i tính linh hoat v ̣ à tiên d ̣ ung cả thời gian l ̣ ân đ ̃ ia đi ̣ ểm. Nó312
giúp giải quyết nhiều vấn đề khó khăn khi sinh viên có thể học mọi lúc mọi nơi và có
thể học nhiều lần miễn là có thiết bị kết nối Internet. Đây là điều mà các phương
pháp giáo dục truyền thống không có được. Trên thực tế, việc học trực tuyến đã
không còn mới mẻ ở các nước trên thế giới. Song ở Việt Nam, nó mới chỉ bắt đầu
phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết nối Internet băng thông rộng
được triển khai mạnh mẽ tới tất cả các nơi trên lãnh thổ.
Với nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy chương trình trực tuyến cho tổ hợp công
nghệ giáo dục Topica, chúng tôi nhận thấy, vai trò của giảng viên đã được thay đổi
trên nền tảng của phương thức tổ chức đào tạo mới (E-Learning).
265 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kỷ yếu hội thảo Quốc gia đào tạo trực tuyến trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4
thông qua thiết bị điện thoại di động. Việc học tập trực tuyến này cho phép cũng như
khuyến khích người học tham gia các khóa học tại bất cứ lúc nào, nơi nào, độ tuổi
nào, tạo môi trường để người học có thể mở rộng kiến thức và hiểu biết của mình.
Tại các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, trong thời gian
gần đây, các trang cá nhân thông qua các mạng xã hội nổi tiếng như Facebook,
Twitter, QQ, WhatApp đã trở thành địa chỉ quen thuộc của người dân, để tìm
hiểu, chia sẻ và tương tác thông tin. Kết hợp các yếu tố nói trên, E-Learning xuất
hiện như một nền tảng tất yếu để xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo hiệu quả
hơn, chất lượng hơn.
Mặc dù ở các quốc gia trên thế giới, hay ở các cơ sở đào tạo có thể có các cách
bố trí về giao diện học tập khác nhau, tuy nhiền, thông thường, một mô hình đào tạo
trực tuyến đơn giản có thể bao gồm những nhân tố sau:
(1) Hệ thống cổng thông tin/Trang chủ: bao gồm các đường dẫn giúp người học có
thể tùy chọn các thông tin, thư mục, cập nhật dữ liệu mới hay tra cứu thông thường
(2) Hệ thống lớp học ảo: bao gồm các học liệu đã được xây dựng thông qua
những bài giảng đa phương tiện với các video; các tập tin dưới dạng văn bản (.doc;
.docx) hay các tập tin dạng slide thuyết trình (.ppt; .pptx); các tập tin âm thanh
(.mp3) giúp người học luôn luôn có thể chọn lựa một phương thức học tập phù hợp
dù ở bất cứ đâu, với điều kiện được kết nối qua mạng Internet
(3) Hệ thống quản lý học tập và giảng dạy: bao gồm việc quản lý chương trình
đào tạo, quản lý học viên, hỗ trợ và quản lý công tác giảng dạy, hỗ trợ trả lời những
thắc mắc liên quan đến người học và người hướng dẫn
(4) Hệ thống quản lý tài nguyên: bao gồm việc quản lý học liệu bằng cách hỗ
trợ và cho phép giảng viên thu thập tài liệu, phát hành tài liệu giảng dạy, Tại một số
quốc gia trên thế giới, hệ thống cho phép tích hợp với thư viện số bao gồm kho tài
nguyên học thuật số hóa rộng lớn, các tạp chí chuyên ngành thuộc hệ thống Scopus
hay ISI
Thực tế cho thấy, bên cạnh thuận lợi mà E-Learning mang tới cho người tham
gia, việc học tập trực tuyến cũng tiềm ẩn một số bất cập. Vì thế, những câu hỏi luôn
được đặt ra cho các cơ sở cung cấp phương thức đào tại này chính là chỉ tiêu nào sẽ
có ảnh hưởng trực tiếp trong việc đánh giá đào tạo trực tuyến; biện pháp và phương
thức nào có thể được sử dụng để thu hút được người học hoặc người học có thể áp
dụng phương thức nào để học tập hiệu quả với E-Learning. Liaw (2005) đã nhấn
mạnh vai trò của các mục tiêu giảng dạy trong đào tạo trực tuyến, và qua đó gợi ý
một số ý tưởng như đưa ra phương thức học tập độc lập cho người học, trong đó bám
sát theo hướng dẫn của chương trình học tập và luôn tạo ra môi trường học tập đa
495
phương tiện chính là những biện pháp giúp nâng cao chất lượng của loại hình đào tạo
này. Nghiên cứu của một số nhà học giả trên thế giới đã chỉ ra rằng sự lo lắng do
thiếu hiểu biết về máy tính của người học, thái độ của người hướng dẫn trong suốt
quá trình học, sự linh hoạt của khóa học, và những phương pháp đánh giá đa dạng
cũng được coi là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hài lòng của người học
(Sun et al., 2006; Ding, 2011).
2. Thực trạng đào tạo trực tuyến tại một số cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam
Theo một báo cáo tổng hợp bởi Wearesocial.net, số lượng người sử dụng
Internet tại Việt Nam tháng 01 năm 2017 là 54,05 triệu người, tương đương khoảng
53% dân số. Thống kê này tăng lên 3% so với thời điểm cùng kì năm 2016. Trong số
những người sử dụng Internet, thời gian sử dụng máy tính cá nhân hoặc máy tính để
bàn lên tới 6 giờ 53 phút trong một ngày. Đây là những con số tính theo tháng, tức là
nếu như người dùng đăng nhập một lần trong tháng đủ để tính là đang hoạt động.
Thống kê này cho thấy, công nghệ số đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống hiện đại. Với sự phát triển vũ bão của kỉ nguyên số hóa, bên cạnh những thuận
lợi mà nó mang lại, những thách thức đặt ra cho giáo dục trực tuyến sẽ càng trở nên
lớn hơn bất cứ khi nào.
Vào ngày 10 tháng 09 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
1559/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020”.
Điều này có thể nói, nhu cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu tất
yếu của thời đại mới. Hiện nay, rất nhiều các trường đại học tại Việt Nam đã mở
rộng hình thức đào tạo trực tuyến bởi tính ưu việt của hình thức này. Ngoài việc giảm
thiểu chi phí, xóa bỏ rào cản về địa lý, thời gian cho người học, các chương trình đào
tạo trực tuyến bậc đại học ở Việt Nam hiện nay được chú trọng phát triển với nhiều
chuyên ngành đa dạng. Có thể lấy ví dụ về một số chương trình đào tạo trực tuyến
bậc đại học tiêu biểu ở Việt Nam như sau:
(1) Trung tâm Đào tạo Từ xa – Viện Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh được thành
lập từ năm 1996 và có những bước đi tiên phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa.
Trường hiện tại có 40 đơn vị liên kết từ Bình Định tới Cà Mau, đồng thời là thành
viên của nhiều hiệp hội các trường đào tạo từ xa trên thế giới như AAOU; ICDE;
SEAMOLEC đào tạo được hơn 20.000 sinh viên dưới hình thức đào tạo từ xa bao
gồm 13 ngành với 24 chuyên ngành thuộc khối quản lý kinh tế; khối kỹ thuật công
nghệ; khối ngành xã hội (tính tới năm 2014). Điểm vượt trội của chương trình đào
tạo từ xa cung cấp bởi Trung tâm Đào tạo Từ xa – Viện Đại học mở TP. Hồ Chí
Minh chính là mạng lưới liên kết đào rộng khắp trong nước và ngoài nước và đặc
biệt là trung tâm không trao quyền cho đối tác nào về chương trình đào tạo. Vì thế,
496
các chương trình đào tạo không những được xây dựng với mục đích kế thừa lý thuyết
trừ các tổ chức uy tín thế giới mà còn bám sát với thực tiễn Việt Nam. Chính vì lý do
này, đào tạo trực tuyến tại Viện Đại học mở TP. Hồ Chí Minh có thể nói là nơi tiên
phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa tại khu vực miền Trung và Nam Việt Nam.
(2) Trung tâm Đào tạo Từ xa - Viện Đại học Mở Hà Nội được thành lập năm
2009 với mô hình đào tạo trực tuyến EHOU và HOU-Topica kết hợp với EDUTOP
64 xây dựng, cung cấp cho người học những hình thức đào tạo đa dạng với các
chuyên ngành Kế toán; Quản trị kinh doanh; Tài chính Ngân hàng; Công nghệ thông
tin; Ngôn ngữ Anh; Luật Kinh tế. Tháng 01 năm 2015, Viện Đại học Mở Hà Nội đã
kí kết Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng và Triển khai đào tạo theo phương thức E-
Learning do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trực
tuyến theo mô hình hiện đại và hiệu quả hơn. Chương trình đào tạo được thiết kế với
Hệ thống quản lý học tập LMS; Hệ thống quản lý đào tạo EBS; Các lớp học trực
tuyến Vclass; Hệ thống hỗ trợ học tập và trả lời thông tin trực tuyến. Mạng lưới liên
kết đào tạo rộng khắp chính là điểm mạnh của chương trình này.
(3) Trung tâm Đào tạo Từ xa – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân với mô hình
đào tạo trực tuyến mang tên NEU-EDUTOP, là chương trình đào tạo cử nhân kết hợp
bởi Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và EDUTOP 64. Bên cạnh đó, chương trình
do Microsoft, Qualcomm, Hewlett Packard, USAID, World Bank Infodev và
Vietnam Foundation phát triển và tài trợ, với nội dung học liệu đa dạng nhằm đào tạo
các nhóm chuyên ngành lớn liên quan tới lĩnh vực Luật kinh tế; Luật kinh doanh;
Tiếng Anh thương mại; Ngân hàng; Quản lý kinh tế; Quản trị du lịch; Quản trị Kinh
doanh tổng hợp; Quản trị doanh nghiệp. Chương trình đào tạo được thiết kế theo mô
hình 4H (Học viên – Hình ảnh – Hiệu quả - Hoạt động), đồng thời ứng dụng đào tạo
kết hợp giữa trực tuyến (online) và ngoại tuyến (offline) phối hợp bởi các giảng viên
chuyên môn và giảng viên doanh nghiệp uy tín. Việc hỗ trợ người học từ 8-24h trong
suốt 7 ngày của tuần học, nhằm đẳm bảo tính tương hỗ với sinh viên tham gia khóa
học. Thông thường, thời gian học kéo dài 9 tuần thông qua việc học lý thuyết trên
các học liệu đa phương tiện; hỏi đáp trực tuyến; bài tập về nhà trực tuyến và kiểm tra
tập trung cuối chương trình, nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra và tính khách quan
trong việc đánh giá chất lượng học tập.
(4) Trung tâm Đào tạo Từ xa – Đại học Thái Nguyên ra đời năm 2012, triển
khai đào tạo từ xa ở bậc đại học dưới hai hình thức truyền thống và trực tuyến. Hình
thức giáo dục trực tuyến được xây dựng đào tạo cử nhân chuyên ngành Kế toán;
Luật; Tài chính Ngân hàng; Quản trị kinh doanh; Công nghệ thông tin; Luật Kinh tế
đã tuyển sinh và đào tạo được 703 sinh viên (tính tới tháng 3 năm 2014). Trong bốn
497
năm 2006-2009, 500 học liệu với bài giảng điện tử đã được xây dựng cho tất cả các
ngành học tại Đại học Thái Nguyên (Thủy Nguyên, 2009). Dù chương trình đào tạo
trực tuyến còn non trẻ, song Trung tâm đã liên tục nâng cấp và cải thiện hệ thống học
liệu điện tử với 4.000 giáo trình và 10.000 tài liệu tham khảo khác, nhằm đáp ứng
nhu cầu cập nhật và tiếp thu kiến thức của học viên.
Sự phát triển của đào tạo trực tuyến tại Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích cho
nền giáo dục nước nhà. Đạt được những thành tựu này, phải kể đến không ít những
thuận lợi mà hệ thống này có được. Với nguồn gốc ban đầu từ đào tạo từ xa truyền
thống, cùng với sự tích lũy và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, bên
cạnh sự hỗ trợ về công nghệ thông tin và sự giúp đỡ từ các đối tác hợp tác quốc tế,
đào tạo trực tuyến tại Việt Nam trong vòng 15 năm trở lại đây đã đạt được nhiều kết
quả đáng ghi nhận. Ngoài ra, tinh thần ham học hỏi của người dân Việt Nam cũng
như các ưu điểm đáng kể của đào tạo trực tuyến cũng là bàn đạp thúc đẩy cho sự phát
triển của hình thức đào tạo này. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi ấy, Việt Nam
cũng đối mặt với một số thách thức khi phát triển E-Learning. Cụ thể như sau:
Một là, nền kinh tế thế giới đã đi vào giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế
tri thức. Vì thế, giáo dục đào tạo là vấn đề mà tất cả các quốc gia trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng đều quan tâm. Cụ thể hơn, việc cung cấp các hình thức
đào tạo trực tuyến với các phương thức kết nối đa dạng và học liệu bao hàm cả lý
luận - thực tiền chính là điểm lưu ý quan trọng quyết định sự sống còn của
E-Learning. Tại Việt Nam, việc ứng dụng thực tiễn vào trong các học phần, học liệu
đã được thực hiện. Một số cơ sở đào tạo có lồng ghép thêm các chương trình giảng
dạy của nước ngoài để đa dạng hóa nội dung học tập, tuy nhiên hiệu quả của việc ứng
dụng trên thực tế vẫn chưa cao.
Hai là, khác với hình thức đào tạo truyền thống, đào tạo trực tuyến yêu cầu
người học phải có phương pháp tiếp cận chủ động hơn trên mỗi học liệu, người học
phải tự chủ trong việc ôn luyện, trao đổi và đặt các câu hỏi trên cơ sở lý thuyết đưa
ra. Nếu học tập trên trường, lớp, học viên có thể cùng tranh luận và phản biện với
nhau cũng như với giáo viên, giảng viên khác thì trong môi trường trực tuyến, việc
thảo luận đôi khi sẽ có độ trễ nhất định, hoặc các học viên sẽ ít có động lực để trao
đổi và tương tác trong các diễn dàn trực tuyến. Một số học viên còn có tâm lý e dè
khi thảo luận, chính vì vậy, hiệu quả của các diễn đàn trực tuyến đôi khi còn hạn chế.
Ba là, mặc dù hệ thống đào tạo trực tuyến tại Việt Nam đang ngày càng được
hoàn thiện với các chức năng ưu việt như sự tương tác giữa giáo viên – học viên; hỗ
trợ audio – video; hỗ trợ các chức năng chia sẻ thông qua các môi trường khác nhau
như LAN; ADSL; Webcam trên các phương tiện và thiết bị khác nhau như Analog
498
Camera; Webcam USB và Card TV nhằm mang lại tiện tích cho người học. Tuy nhiên,
do hạn chế về hệ thống cơ sở vật chất và chất lượng về công nghệ thông tin, hiệu quả
của các chương trình vẫn là một vấn đề bức thiết đặt ra cho các cơ sở cung cấp đào tạo
trực tuyến. Đặc biệt, đào tạo trực tuyến có thể mang lại khó khăn nếu lớp học có hàng
ngàn sinh viên tham gia. Với cơ sở hạ tầng như hiện nay, tình trạng nghẽn mạng xảy ra
tương đối thường xuyên khi có số lượng sinh viên cùng đăng nhập quá lớn, chưa kể tới
nhu cầu thảo luận đồng thời cùng một lúc giữa các sinh viên đó.
3. Đề xuất một số giải pháp phát triển đào tạo trực tuyến tại Việt Nam
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 trong thời gian tới đây có thể thay đổi cục diện kinh tế
- xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam, đương nhiên, không phải là
ngoại lệ. Với cuộc cách mạng này, sự thay thế về nhân lực bằng robot có thể phá vỡ
những quy luật vốn có trên thị trường. Chính vì thế, mặc dù, cuộc cách mạng này có thể
mang lại nhiều thuận lợi, nhưng thách thức mà các quốc gia phải đối mặt cũng không hề
nhỏ. Trong bối cảnh đó, vai trò của giáo dục càng được đề cao hơn bao giờ hết, bởi việc
giáo dục đào tạo ra những cán bộ, nhân công lành nghề có kĩ thuật và tay nghề cao chính
là điểm mấu chốt sống còn trong thời kì kỉ nguyên số hóa.
Mô hình đào tạo trực tuyến, vì vậy, cần có sự chuyển biến tích cực để tránh
được những cú sốc do không kịp thích ứng với sự thay đổi quốc tế, đồng thời cung
cấp cho xã hội đội ngũ nhân công với trình độ cao. Một chương trình giáo dục lấy
đào tạo nhân lực nhằm phát triển kinh tế xã hội làm cốt lõi là điều cần được lưu ý.
Trước tiên, việc tăng cường hợp tác quốc tế và tiếp thu kinh nghiệm của các cơ sở
giáo dục trên thế giới là việc đáng hoan nghênh. Mô hình đào tạo kép của Thụy Sỹ,
Mỹ, Nhật và các quốc gia phát triển khác với tiêu chí “Học đi đôi với hành” là mô
hình có thể học hỏi và áp dụng (Phạm Kim Nam, 2017).
Bên cạnh việc thay đổi học liệu, học phần, chất lượng học viên cũng như đội
ngũ giảng viên, giáo viên cũng là một vấn đề quan ngại. Các cơ sở giáo dục đào tạo
trực tuyến có thể mở các lớp học định kì với chi phí rẻ về phương pháp học tập cho
sinh viên, học viên; hay các lớp nâng cao kĩ năng giảng dạy cho đội ngũ người
hướng dẫn, nhằm hướng tới sự toàn diện cả về chất và lượng.
Thực hiện các chiến dịch marketing cho các chương trình E-Learning cũng là
biện pháp ngắn hạn mà các cơ sở đào tạo có thể lưu ý. Việc làm này góp phần đưa
E-Learning đến với tất cả các tầng lớp dân cư tại Việt Nam, từ đó khuyến khích
tinh thần học tập cũng như rút ngắn những rào cản mà đào tạo truyền thống mang lại.
Cuối cùng, việc phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ E-Learning cũng là điều cần
lưu ý. Dĩ nhiên, việc thực hiện cải cách và nâng cấp này không thể diễn ra trong ngắn
499
hạn, vì thế, các cơ sở đào tạo cần có sự phân bổ cụ thể về tài chính cũng như sự sắp
xếp về thời gian để vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời giảng dạy và nâng cấp hạ tầng.
Nói tóm lại, học tập và đào tạo trực tuyến là giải pháp mở giúp gia tăng hiệu
quả của đào tạo truyền thống. Rất nhiều các học viên, sinh viên sau khi tham gia các
chương trình đào tạo trực tuyến tại Việt Nam đều cảm thấy hài lòng. Điều này chính
là minh chứng cho việc phát triển đào tạo trực tuyến tại Việt Nam, cũng như đặt ra
các thách thức cho những nhà phát triển giáo dục nhằm xác định chiến lược để quản
trị và phát triển hình thức đào tạo mới mẻ này, giúp người học có những trải nghiệm thú vị và
hữu ích.
500
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Ding, A. & Wang, D. (2011), “Factors Influencing Learner Attitudes Toward E-
Learning and Development of E-Learning Environment Based on the Integrated E-
Learning Platform”, International Journal of e-Education, e-Business, e-
Management, and e- Learning, Vol 1, No. 3, trang 264-268.
3. Phạm Kim Nam (2017), “Cách mạng Công nghệ 4.0 và cơ hội của Việt Nam”,
truy cập ngày 10/10/2017 tại
va-co-hoi-cua-viet-nam-20170205001902011.htm
4. Liaw S.S, Huang H.M., and Chen, G.D. (2005), “Surveying Instructor and Learner
Attitudes Toward E-Learning,” Computers & Education, Vol. 49, trang 1066-1080
5. Thủy Nguyên (2009), “Đại học Thái Nguyên triển khai E-Learning: Đích còn
xa?”, truy cập ngày 10/10/2017 tại https://www.baomoi.com/dai-hoc-thai-nguyen-
trien-khai-E-Learning-dich-con-xa/c/3161272.epi
6. Wearesocial & Hootsuite (2017), “Digital in Vietnam”, trang 165-187, truy cập ngày
10/10/2017 tại
https://drive.google.com/file/d/0ByhiT775qScPd1hMYklpNTVJQjA/view
501
MÔ HÌNH ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN - THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
ThS. Nguyễn Hồng Thái
Công ty luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp
Tóm tắt
Sự ra đời của đào tạo trực tuyến trong thời kì cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ
tạo nên một bước ngoặt mới cho nền giáo dục Việt Nam. Việc học tập giờ đây sẽ
chuyển từ thụ động sang chủ động. Học sinh sẽ không bị gò bó thời gian đến trường
mà có thể học trực tuyến tại nhà qua Internet. Kiến thức đào tạo sẽ được chuyển hóa
qua 3 chủ thể, giảng viên – máy tính – học sinh/sinh viên. Đây có thể coi là một bước
phát triển mới của ngành giáo dục, là phương thức đào tạo để lựa chọn những nhân
tài để phát triển đất nước. Dẫu biết bất cứ một khởi đầu nào cũng đều gặp khó khăn,
nhất là trong thời kì công nghiệp 4.0 như hiện tại máy móc đang dần thay thế con
người thì đào tạo trực tuyến cũng gặp những cản trở lớn, về tài chính và cả những
nguồn dư luận trái chiều. Thế nhưng, cuộc sống luôn hoàn thiện và đi lên, cũng
giống như kinh doanh online, dự báo rằng đào tạo trực tuyến Việt Nam sẽ phát triển
mở ra nhiều cơ hội mới, chúng ta không những đào tạo ra nhiều nhân tài mà còn có
thể xuất khẩu tri thức ra ngoài thế giới.
Từ khóa: Đào tạo trực tuyến, E-Learning, MOOC
1. Mô hình đào tạo trực tuyến
Đào tạo trực tuyến không còn là khái niệm mới mà hiện tại nó đang phát triển
và dần sẽ chiếm lĩnh phần lớn trong nền giáo dục Việt Nam. Đào tạo trực tuyến xuất
hiện đầu tiên vào tháng 10/1999 trong một hội nghị Quốc tế về CBT (Computer –
Based Training) và được gọi với thuật ngữ là “E-Learning”. Trước đó, khi chưa xuất
hiện Internet, các khóa học từ xa đã được Issac Pitman mang đến vào những năm
1840. Ông đã dạy cho các học sinh của mình phương pháp viết tốc ký thông qua hệ
thống mail và nhận lại các kết quả mà các học sinh đã hoàn thành.
Từ năm 2010 trở đi, với sự bùng nổ về công nghệ ứng dụng trên các nền tảng
di động hay sự phát triển vượt bậc của một thế hệ mạng xã hội lớn như Facebook,
Google Plus, Instagram đã khiến cho hệ thống tương tác thông tin với người sử
dụng trở nên phong phú hơn bao giờ hết. Qua đó, các phương thức tương tác trên
môi trường đào tạo trực tuyến cũng có những chuyển biến thay đổi phù hợp với
người sử dụng.
Tính đến thời điểm hiện tại, trên thế giới có 2 mô hình đào tạo trực tuyến chính
là đào tạo E-Learning và MOOC.
502
Mô hình đào tạo “E-Learning”: Là hệ thống quản lý học tập LMS (Learning
Management System). Theo đó, người dạy, người học và người quản trị hệ thống đều
truy cập vào hệ thống này với những mục tiêu khác nhau đảm bảo hệ thống hoạt
động ổn định và việc dạy học diễn ra hiệu quả. Trong mô hình đào tạo E-Learning
còn có 5 mô hình nhỏ khác như:
• Mô hình CBT & WBT
• Mô hình Online learning
• Mô hình Distance learning
• Mô hình LMS
• Mô hình Blended Learning
Hình 1. Mô hình hệ thống E-Learning
Mô hình đào tạo trực tuyến MOOC (mô hình đào tạo trực tuyến mở đại trà):
Tương tự như đào tạo từ xa (distance learning), các khóa học MOOC được triển khai
và cung cấp qua Internet. Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt của MOOC so
với các khóa đào tạo từ xa truyền thống là số lượng người đăng kí (subscriber) có thể
lên đến hàng ngàn người học và thường không giới hạn hay ràng buộc về điều kiện
tham dự cũng như phí đăng kí.
503
Hình 2. Mô hình đào tạo MOOC
Hiện tại nhiều nước phát triển trên thế giới đã triển khai mạnh mẽ mô hình đào
tạo trực tuyến trong hệ thống giáo dục chung trên cả nước, điển hình như Mỹ, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Singapore, Úc, Hà Lan, Thụy Điển, Canada, Hong Kong,
Một nghiên cứu được tiến hành bởi tổ chức Babson Survey Research Group đã
cho thấy có trên 7 triệu sinh viên đăng ký tham gia học trực tuyến vào năm 2013. Có
đến 80% các tổ chức và trường đại học của Mỹ hiện nay đang cung cấp các khóa học
trực tuyến, các trường đại học hàng đầu như Đại học Harvard, Đại học California -
Berkeley và Đại học Chicago không nằm ngoài danh sách này. Và bất ngờ thay, 75%
phụ huynh người Mỹ cho biết họ có được sự an tâm và tin tưởng khi cho con học
trực tuyến bởi họ luôn được cập nhật đầy đủ về tình hình học tập của con em mình.
2. Ưu điểm của đào tạo trực tuyến
So với đào tạo truyền thống, đào tạo trực tuyến mang lại cho học viên nhiều lợi
ích như:
Thứ nhất, về sự thuận tiện: Học dựa trên E-Learning được thực hiện phù hợp
với tiến độ học tập và hoàn cảnh của người học, đảm bảo học mọi lúc, mọi nơi, hỗ
trợ hợp tác trong môi tường mạng. Với người quản trị, dễ dàng quản lý lớp học với
số lượng lớn.
Thứ hai, về chi phí và sự lựa chọn: Chi phí cho một khóa học trực tuyến không
cao, học viên có thể lựa chọn các khóa học phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của
bản thân.
Thứ ba, về sự linh hoạt: Khi tham gia một khóa học mới, người học có thể
không cần phải học tất cả nội dung, qua đó có thể đẩy nhanh tiến độ học tập. Các
khóa học dễ dàng được cập nhật thường xuyên và nhanh chóng.
504
Ở các nước phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của đào tạo trực tuyến khiến cho
nhiều người lo lắng cho sự an nguy của đào tạo truyền thống. Nhiều quan điểm cho
rằng sự ra đời của đào tạo trực tuyến là để triệt tiêu đào tạo truyền thống. Tuy nhiên
cũng giống như kinh doanh online, đào tạo trực tuyến ra đời với những ưu điểm để
lấp đầy hạn chế của phương pháp đào tạo truyền thống, hướng tới một mục tiêu
chung thúc đẩy nền giáo dục phát triển một cách toàn diện nhất. Đúng như câu nói
của bà Susan Hockfield, chủ tịch MIT: “Loại hình đào tạo trực tuyến không phải là
kẻ thù của hình thức truyền thống mà sẽ là một đồng minh mật thiết”.
Tại Việt Nam, FUNIX trực thuộc hệ thống FPT Education là trường đại học
trực tuyến đầu tiên tại Việt Nam được thành lập năm 2015. Trước đó năm 2010 đã có
đơn vị tiên phong và tìm kiếm cơ hội kinh doanh với mô hình E-Learning như
Violet.vn, hocmai.vn, TOPICA. Tính đến hiện tại đã có rất nhiều trường đại học sử
dụng mô hình đào tạo trực tuyến trong giảng dạy như Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Trà Vinh, Đại học Thái Nguyên, Đại học
TP.HCM, ĐH Cần Thơ
3. Thuận lợi và khó khăn của đào tạo trực tuyến tại Việt Nam
Sau nhiều cuộc khảo sát để đánh giá thực trạng đào tạo trực tuyến của giảng
viên và học viên ở các trường đại học tại Việt Nam. Nhiều chuyên gia đã phân tích
những điểm thuận lợi và khó khăn của đào tạo trực tuyến ở Việt Nam.
Thuận lợi
• Về thời gian và địa điểm học: Người học có thể thuận lợi sắp xếp thời gian cho
bản thân để vừa thuận lợi cho công việc, vừa thuận lợi cho việc học. Người học có thể
học ở bất kỳ nơi nào chỉ cần có mạng Internet, tự chủ động trong quá trình học;
• Về khả năng tiếp thu: Học viên dễ tiếp nhận nội dung bài học một cách dễ
dàng, phù hợp với tiến độ nhịp học.
• Về thời gian và chi phí: Người học không bị gián đoạn việc học tập nếu phải
đi công tác hay đi xa, thậm chí ra nước ngoài vì có thể truy cập vào bất cứ máy tính
nào, ở bất cứ đâu với một khoản chi phí không lớn, lại tiết kiệm được thời gian.
• Về khả năng kết nối: Giáo dục trực tuyến kết nối được người học với các
giảng viên giỏi, dù họ ở xa hay giờ giấc không trùng nhau. Việc này tiết kiệm thời
gian cho giảng viên, cho phép họ tập trung vào chuyên môn chính là giải đáp thắc
mắc, hướng dẫn thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm thực tế, tạo động lực và khuyến khích
sáng tạo. Những thứ khác như bài giảng, chấm bài, theo dõi chuyên cần... đều được
ghi lại và trợ giúp bằng phần mềm.
505
• Về cách thức học tập: Người học được học cách phù hợp nhất với mình: qua
video có thể xem lại nếu cần, thầy không phải giảng lại. Việc tiếp thu kiến thức qua
nhiều công cụ khác như học liệu minh hoạ, sách, các ứng dụng trên điện thoại di
động... giúp họ tranh thủ và chủ động được thời gian.
• Về lộ trình học của từng cá nhân: Công nghệ và phần mềm hiện đại có thể
hiểu rõ từng học viên, biết điểm mạnh - yếu, lỗ hổng kiến thức, thời gian học tập
trung, dễ hiểu bài qua hình minh hoạ hay qua video bài giảng... Và dựa trên thống kê
của hàng triệu học viên khác, phần mềm sẽ đưa ra phương pháp, lộ trình học phù hợp
nhất với từng người. Một lợi thế khác là phần mềm có thể theo bạn suốt 17 năm đi
học, còn ở trường thì giáo viên giỏi cũng chỉ dạy bạn theo từng học kỳ, sau đó sẽ
thay người khác.
Một điểm thuận lợi nữa của đào tạo trực tuyến ở Việt Nam đó là nhu cầu học
tập và hiểu biết của học sinh ngày càng cao, nhất là trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0, các ngành như công nghệ thông tin, quản trị kinh doanh, nấu ăn... ngày
càng được nhiều sinh viên theo học.
Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì việc đào tạo trực tuyến ở Việt Nam cũng gặp phải
những khó khăn lớn:
Thứ nhất, đây là một nội dung còn khá mới mẻ đối với ngành giáo dục nói
chung, các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có quy
chế đào tạo trực tuyến sẽ là khó khăn lớn nhất ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_yeu_hoi_thao_quoc_gia_dao_tao_truc_tuyen_trong_thoi_ky_ca.pdf