Sáng ngày 20/3/2014 tại thành phố Đà Lạt, Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN), Viện Năng
lượng Nguyên tử (NLNT) Việt Nam đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm ngày khánh thành
Công trình khôi phục, mở rộng Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và Đón nhận Huân chương Độc
lập hạng Ba.
              
                                            
                                
            
 
            
                 48 trang
48 trang | 
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 643 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kỷ niệm 30 năm ngày khánh thành công trình khôi phục, mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và đón nhận huân chương độc lập hạng ba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thương mại hóa sẽ là vào khoảng năm 2035.
 Về lý thuyết, phương thức chuyển hóa 
hạt nhân sẽ hoạt động trên nguyên lý các nguyên 
tố siêu urani được đưa vào môi trường có thông 
lượng neutron rất cao trong một thời gian dài, có 
thể lên tới vài năm. Và trong phần bài viết này, tác 
giả sẽ đánh giá những phương thức kỹ thuật khác 
nhau được coi là có thể đạt được tỷ lệ chuyển hóa 
thành công đáng chú ý.
 Nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất
 Nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất là nhiên 
liệu mà trong đó các nguyên tố siêu urani được 
đưa vào nhiên liệu hạt nhân với lượng rất nhỏ so 
với tổng thể nhiên liệu. Những phương án đơn 
giản nhất đã được cân nhắc, ví dụ như kết hợp 
Np-237 vào trong nhiên liệu oxit hỗn hợp urani 
và plutoni trong lò neutron nhiệt hoặc neutron 
nhanh. Các hạt nhân Np-237 sẽ nằm trong môi 
trường có thông lượng neutron khá cao của lò 
phản ứng trong khoảng 4-5 năm, bằng thời gian 
bó nhiên liệu tồn tại trong vùng hoạt, trong thời 
gian này, một lượng nhất định các hạt nhân Np-
237 sẽ bị chuyển hóa, con số này tùy thuộc thiết 
kế lò. Hạt nhân Np-237 được coi là khá phù hợp 
với loại nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất, nhưng 
đối với americi và curi thì hoan toàn ngược lại. 
 Về nhiều khía cạnh, nhiên liệu chuyển 
hóa đồng nhất được coi là phương án kỹ thuật 
đơn giản nhất, bởi thiết kế kỹ thuật cũng như tính 
năng vật liệu của bó nhiên liệu chỉ bị ảnh hưởng 
rất ít bởi sự có mặt cua Np-237 và hàm lượng 
Np-237 trong bó nhiên liệu chỉ giới hạn ở mức 
vài phần trăm.Tuy nhiên, việc đưa Np-237 vào 
nhiên liệu sẽ cần có các kỹ thuật chế biến nhiên 
liệu điều khiển từ xa, và chi phí gia tăng trong 
việc sản xuất nhiên liệu là nhược điểm khá lớn 
của phương án này.
 Phương án chuyển hóa dị thể
 Phương án chuyển hóa dị thể này được 
thực hiện dựa trên nguyên lý đưa các nguyên tố 
siêu urani vào những bó nhiên liệu đặc thù, khác 
biệt so với những bó nhiên liệu thông thường 
trong vùng hoạt. Những bó nhiên liệu đặc thù này 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
34 Số 38 - Tháng 3/2014
được đặt ở vị trí có thông lượng neutron phù hợp 
đủ để bắn phá các hạt nhân trong đó. Phương án 
chuyển hóa dị thể này được coi là phù hợp hơn 
đối với các hạt nhân americi và curi.
Miêu tả cơ bản về nhiên liệu chuyển hóa dị thể 
và đồng nhất
 Những bó nhiên liệu đặc thù trong chuyển 
hóa dị thể sẽ làm phức tạp hóa thiết kế vùng hoạt, 
bởi sẽ tồn tài những loại bó nhiên liệu khác biệt 
trong vùng hoạt, gồm những bố có thiết kế có 
yếu tố điều hướng và những bó có thiết kế mục 
tiêu phân hạch (các bó nhiên liệu đặc thù). Tuy 
nhiên, đa số những bó nhiên liệu là kiểu điều 
hướng không chứa các nguyên tố siêu urani, và 
chỉ có một lượng nhỏ các bó nhiên liệu là chứa 
các nguyên tố siêu urani nên chỉ môt lượng nhỏ 
bó nhiên liệu là cần được sản xuất bằng kỹ thuật 
điều khiển từ xa. Những lợi thế khác của phương 
án này là những bó nhiên liệu đặc thù có thể được 
thiết kế nhằm tối ưu hóa quá trình chuyển hóa hạt 
nhân. Về cụ thể, nếu các bó nhiên liệu đặc thù 
sử dụng ma trận chất trơ để chứa các nguyên tố 
siêu urani thì việc các nguyên tố siêu urani tiếp 
tục được tạo ra do U-238 hấp thụ neutron sẽ được 
hạn chế hơn. Phương án chuyển hóa dị thể cũng 
phù hợp với nhiều quy trình tái xử lý khác nhau, 
cho phép gia tăng tỷ lệ chuyển hóa thành công. 
Tuy nhiên, quá trình chế tạo những bó nhiên liệu 
đặc thù không có urani sẽ rất khó khăn và sẽ yêu 
cầu có những nhà máy sản xuất và tái xử lý riêng.
 Lò neutron nhanh
 Trong một lò phản ứng neutron nhanh, tỷ 
lệ phân hạch của các nguyên tố siêu urani là khá 
cao và là đây cũng là lý do tại sao cộng đồng quốc 
tế luôn cân nhắc rằng lò neutron nhanh là phương 
án phù hợp nhất đối với việc thực hiện chuyển 
hóa hạt nhân các nguyên tố siêu urani. Tiết diện 
phản ứng chuyển hóa của các hạt nhân nói chung 
là khá thấp, vì vậy sẽ cần có một môi trường với 
thông lượng neutron rất cao và lò neutron nhanh 
đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên, việc nạp 
vào một lượng lớn các nguyên tố siêu urani trong 
lò nhanh là không nên bởi vì khả năng kiểm soát 
độ phản ứng cũng như các hiệu ứng phản hồi của 
lò neutron nhanh không hiệu quả bằng các lò 
phản ứng neutron nhiệt (đây là vấn đề phụ thuộc 
khá nhiều vào thiết kế và cần được cân nhắc trong 
quá trình phát triển trong tương lai).
 Một trong những phương án khả thi 
cho việc sử dụng chuyển hóa hạt nhân bằng lò 
neutron nhanh là sử dụng các bó nhiên liệu mục 
tiêu chuyển hóa có vật liệu điều chỉnh, vật liệu 
điều chỉnh ở đây thường được dùng là Zirconium 
hydride nhằm làm chậm neutron sinh ra từ các bó 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
35Số 38 - Tháng 3/2014
nhiên liệu kiểu điều hướng. Đối với các neutron 
ở mức năng lượng nhiệt thì tiết diện phản ứng sẽ 
lớn hơn và việc tăng cường tiết diện phản ứng 
cũng như thông lượng neutron nhiệt cao sẽ gia 
tăng tỷ lệ chuyển hóa thành công.
 Trên thực tế, Các lò phản ứng neutron 
nhiệt cũng có thể đạt được 1 tỷ lệ chuyển hóa 
hạt nhân đáng kể. Tuy nhiên, sự cân bằng giữa 
lượng neutron tạo ra phân hạch và lượng neutron 
tạo ra hấp thụ không thuận lợi cho chuyển hóa 
hạt nhân lắm và thông lượng neutrong trong lò 
neutron nhiệt cũng nhỏ hơn so với lò neutron 
nhanh. Tuy nhiên, tiết diện phản ứng với neutron 
nhiệt của các nguyên tố siêu urani lại khá lớn nên 
tỷ lệ chuyển hóa hạt nhân thành công của 2 lò 
này là khá tương tự nhau. Về chi tiết, Am-241 
có thể được chuyển hóa rất hiệu quả trong các 
lò neutron nhiệt, chỉ qua một chu trình chiếu xạ 
nhiên liệu, có tới khoảng 70% hạt nhân đồng vị 
này bị phá hủy.
 Hạn chế lớn nhất của các lò neutron nhiệt 
là hàm lượng các nguyên tố siêu urani đưa vào 
trong lò bị giới hạn nhằm tránh những tác động 
không tốt tới việc kiểm soát độ phản ứng vùng 
hoạt và các đặc tính phản hồi của độ phản ứng 
(reactivity feedback). Cũng bởi những điều cần 
cân nhắc này, tiềm năng chuyển hóa hạt nhân 
trong lò neutron nhiệt không được quan tâm 
nhiều bằng lò neutron nhanh. 
 Tuy vậy, tiềm năng của lò neutron nhiệt 
hiện tại vẫn lớn hơn bởi hiện tại đã có khoảng 
hơn 400 lò neutron nhiệt đang vận hành trên thế 
giới, trong khi chỉ có một vài mẫu thử nghiệm lò 
nhanh đang tồn tại. Nếu hội đồng quốc tế thực sự 
nghiêm túc đối với việc thực thi chuyển hóa hạt 
nhân quy mô thương mại thì các lò neutron nhiệt 
luôn sẵn sàng, nhưng đối với lò neutron nhanh 
thì cần có một thời gian nghiên cứu nữa. Các lò 
neutron nhiệt sẽ rất hữu ích trong việc thử nghiệm 
chuyển hóa hạt nhân trong khi chúng ta vẫn tiếp 
tục nghiên cứu phát triển lò nhanh. 
 Các hệ thống dưới tới hạn điều khiển 
bằng máy gia tốc
 Một hệ thống dưới tới hạn điều khiển bởi 
máy gia tốc (ADS) là một hệ thống sử dụng tia 
proton với mức năng lượng cực cao (khoảng 1 
GeV) nhằm tạo ra sự phá vỡ hạt nhân mục tiêu và 
phát tán ra nhiều neutron. Các neutron bị phát tán 
ra được khuếch đại bởi một vùng hoạt phân hạch 
dưới tới hạn. Vùng hoạt dưới tới hạn này thường 
được vận hành với hệ số nhân k vào khoảng từ 
0.95-0.98, và nó khuếch đại các neutron phát tán 
với trị số khoảng từ 20-50 ( tính bằng công thức 
= 1/(1-k) ). Một vùng hoạt dưới tới hạn có thể vận 
hành ở trạng thái ổn định mà không cần nguồn 
cung cấp bổ sung neutron nào và nguồn neutron 
phát tán sẽ cung cấp đủ thông lượng neutron cần 
thiết và giữ mức công suất ổn định.
 Với một hệ số nhân nhất định, mức độ 
năng lượng tạo ra sẽ tỷ lệ tuyến tính với độ mạnh 
của nguồn neutron phát tán, và độ mạnh này được 
quyết định bởi dòng proton. Hệ thống ADS được 
coi là khá phù hợp đối với phương thức chuyển 
hóa hạt nhân. Phổ neutron của hệ thống này khá 
linh động và chúng ta có thể đưa ra các thiết kế 
nhằm điều chỉnh phổ neutron ở các mức năng 
lượng khác nhau ở những vị trí khác nhau sao cho 
phù hợp với yêu cầu của quy trình chuyển hóa hạt 
nhân các nguyên tố siêu urani. Khả năng kiểm 
soát độ phản ứng và phản hồi độ phản ứng của 
hệ thống ADS được coi là không có độ nhạy cao 
bằng cá lò phản ứng tới hạn, tuy nhiên điều này 
cần được làm rõ thêm khi các thiết kế đã được 
nghiên cứu và triển khai thí nghiệm kỹ lưỡng. 
 Mức năng lượng cần thiết đối với dòng 
proton trong hệ thống ADS là cao hơn rất nhiều 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
36 Số 38 - Tháng 3/2014
so với những hệ thống máy gia tốc thí nghiệm 
thông thường và đây cũng là một trở ngại không 
hề nhỏ. Ngoài ra việc đạt được trạng thái vận 
hành ổn định đáng tin cậy đối với những dòng 
proton cũng là một vấn đề.
 Ảnh hưởng của chuyến hóa hạt nhân 
tới quá trình lưu trữ, phân hủy chất thải dưới 
lòng đất
 Trong thời gian gần đây, một nhóm 
chuyên gia thuộc tổ chức NEA của khối các quốc 
gia OECD đã đánh giá các nghiên cứu quốc tế 
về ảnh hưởng của việc phân tách và chuyển hóa 
hạt nhân các nguyên tố siêu urani đối với những 
loại cơ sở phân hủy chất thải hạt nhân trong lòng 
đất khác nhau. Và nhóm chuyên gia này đã kết 
luận rằng những quá trình chuyển hóa hạt nhân 
sẽ không thể nào thay thế hoàn toàn chiến lược 
phân hủy chất thải duois lòng đất, bởi những sản 
phẩm phân hạch có thời gian sống lâu dài và các 
hạt nhân phóng xạ khác vẫn còn tồn tại trong chất 
thải từ các lò phản ứng và vẫn cần được quản lý.
 Các điều kiện địa chất tại các cơ sở khác 
nhau sẽ xác định được khả năng linh động của các 
hạt nhân phóng xạ khác nhau. Ví dụ, tại một cơ 
sở với điều kiện nước ngầm hạn chế, như ở Anh, 
thì khả năng hòa tan các ions của các nguyên tố 
siêu nặng sẽ rất thấp và các nguyên tố này sẽ vẫn 
không bị hòa tan ra môi trường cho dù trải qua 
một thời gian dài. Vì vậy nên hoạt độ phóng xạ 
lúc đó sẽ chủ yếu được quyết định bởi ion phóng 
xạ dễ tan trong các sản phẩm phân hạch, khi 
đó việc giảm bớt đi các nguyên tố siêu urani sẽ 
không có nhiều ý nghĩa trong việc kiểm soát hoạt 
độ phóng xạ môi trường.
 Các đánh giá của nhóm chuyên gia của 
NEA đối với các cơ sở phân hủy dưới lòng đất đặt 
ở những nơi có nền tảng địa chất chứa nhiều vật 
liệu núi lửa chưa bão hòa (VD như núi Yucca), 
trong các thành tạo phiến sét (sét và đá bùn không 
thấm nước) và trong các thành tạo đá kết tinh, và 
co điều kiện thành tạo môi trường muối, tất cả 
các điều kiện này đều có khả năng như nhau. 
 Nhóm chuyên gia NEA cũng đã cân nhắc 
tới việc phân hủy trong lỗ khoan sâu và nhấn 
mạnh rằng sự chênh lệch độ mặn giữa phần sâu 
nhất của lỗ khoan và phần nước gần bề mặt sẽ 
ngăn ngừa các hạt nhân phón xạ di chuyển vào 
môi trường nước ngầm. Trích dẫn từ một trong 
những nghiên cứu quốc tế được tham khảo bởi 
nhóm chuyên gia NEA thì việc tách chiết và 
chuyển hóa hạt nhân là “gần như không gây ảnh 
hưởng gì tới tác động bức xạ trong điều kiện phát 
triển bình thường của kho lưu trữ” và “ hệ thống 
lưu trữ trong long đất rất hiệu quả trong việc giảm 
khả năng di chuyển của các nguyên tố siêu urani, 
và liều chiếu tới từ những nguyên tố này được 
hạn chế tối đa”. Nhằm bổ sung cho kết luận này, 
nhóm chuyên gia NEA cũng đã nhấn mạnh rằng 
sự hư hỏng của những thiết bị lưu trữ là không 
có quy luật nhất định, những kiện chất thải khác 
nhau thì có khả năng hư hỏng khác nhau. Trong 
những trường hợp này, nhóm chuyên gia NEA 
cũng đã cân nhắc rằng có thể sẽ có hiệu ứng thứ 
nguyên trong những độc tố bức xạ khi mà các 
kiện chất thải bắt đầu hư hỏng.
 Cuối cùng, nhóm chuyên gia này cũng đã 
đề cập rằng việc chuyển hóa hạt nhân các nguyên 
tố siêu urani sẽ giảm được lượng nhiệt phân rã từ 
chất thải hạt nhân và có khả năng có lợi cho việc 
xây dựng thiết kế cơ sở lưu trữ chất thải. Ngoài 
ra thì, khi chúng ta làm giảm được mức độc tố 
phóng xạ nhờ chuyển hóa hạt nhân thì cũng sẽ 
giảm được sự bất ổn trong các biến đổi bên trong 
cơ sở lưu trữ dưới long đất, điều này thực sự có 
lợi cho việc thi công xây dựng an toàn.
Đỗ Văn Lâm, Biên dịch và Tổng hợp
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
37Số 38 - Tháng 3/2014
Thorium xuất hiện trong đất và đá, là một 
chất thải trong khai thác đất hiếm từ cát monazite, 
có thể mang lại niềm hứa hẹn quan trọng là một 
nhiên liệu thay thế cho uranium trong lĩnh vực 
năng lượng hạt nhân.
Khi mà tiêu thụ năng lượng toàn cầu tăng 
lên, thorium đang được xem xét là một lựa chọn 
có thể thay thế urani để cung cấp điện hạt nhân 
dồi dào và an toàn với một chi phí hợp lý. Ví 
dụ, Ấn Độ đã quan tâm đến năng lượng hạt nhân 
nguồn thorium từ nhiều thập kỷ. Lò phản ứng 
nghiên cứu Kamini 30 kWth sử dụng U-233, thu 
hồi từ nhiên liệu ThO
2
 được chiếu xạ trong một 
lò phản ứng khác, khởi động trong năm 1996 gần 
thành phố Kalpakkam. Lò phản ứng được xây 
dựng gần ngay lò phản ứng thử nghiệm tái sinh 
nhanh 40 MWt, ThO2 được chiếu xạ trong lò 
phản ứng tái sinh này.
 Thorium đang được nghiên cứu
 Câu hỏi về thorium hoạt động như thế 
nào để tạo ra năng lượngđã được trả lời trong 
năm 2013, khi một công ty tư nhân Na Uy, Thor 
Energy, bắt đầu sản xuất ra điện năng tại lò phản 
ứng thử nghiệm của Công ty ở Halden, Na Uy với 
thorium.
 “Đây là bước đi cơ bản đầu tiên trong tiến 
triển thorium,”, Oystein Asphjell, CEO của Thor 
Energy, nói với hãng tin Reuters.
Cơ sở thử nghiệm của Thor Energy
Thorium được nhà hoá học Thụy Điển Jons Jakob Berzelius phát hiện ra trong năm 1828 
và được đặt tên là Thor, Thần sấm sét Bắc Âu. Trong năm 1989, Gerhard Carl Schmidt và Marie 
Curie cùng phát hiện ra thorium là kim loại phóng xạ.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
38 Số 38 - Tháng 3/2014
 Công ty hạt nhân khổng lồ Westinghouse, 
một đơn vị của Toshiba, là một thành viên của 
một tổ hợp quốc tế do Thor Energy lập ra để đầu 
tư và quản lý các cuộc thí nghiệm.
 Là một công ty đang nghiên cứu sử dụng 
thorium làm nhiên liệu hạt nhân, Thor Energy đã 
lập ra một tổ hợp quốc tế với chức năng đầu tư 
tài chính và quản trị các cuộc thí nghiệm thorium. 
Một trong những thành viên của tổ hợp là không 
ai khác hơn là Westinghouse, một công ty được 
lập ra để sản xuất năng lượng hạt nhân; công ty 
này đưa ra những quan điểm nghiên cứu.
 Nhưng Thor Energy không chỉ là công ty 
tham gia nghiên cứu xem liệu thorium có thể là 
nguồn quan trọng thay thế uranium trong công 
nghiệp năng lượng hạt nhân. Các công ty từ Mỹ, 
Australia và Cộng hoà Czech cũng đang thiết kế 
lò phản ứng thorium và nghiên cứu những khía 
cạnh khác nhau của công nghệ năng lượng sử 
dụng thorium. Tuy nghiên, Thor Energy là công 
ty đầu tiên bắt đầu sản xuất năng lượng bằng 
thorium.
Năng lượng thorium hoạt động như thế nào
 Không giống như uranium, thorium không 
thể tách ra để tạo ra một phản ứng dây chuyền hạt 
nhân, nó không phân hạch. Tuy nhiên, nếu nó bị 
bắn phá bằng các neutron từ một nhiên liệu phân 
hạch, như uranium-235 hoặc plutonium-239; hạt 
nhân thorium hấp thụ các neutron dư thừa, các 
neutron được điều tiết có thể tạo ra U-233, một 
đồng vị phân hạch mà loại đồng vị này không tồn 
tại trong tự nhiên. U-233 này giải phóng đủ năng 
lượng để kích hoạt gia tốc phân tử, cộng thêm 
phần dư thừa có thể chạy một nhà máy điện.
 Đây là một quá trình phức tạp, bao gồm 
những cơ chế muối nóng chẩy trong lò phản ứng 
(MSR) so với lò phản ứng nước áp lực trong quá 
trình đốt cháy thorium, nhưng phản ứng như mô 
tả ở trên là điều hấp dẫn chủ yếu của thorium, và 
hứa hẹn về nguyên tắc sử dụng thorium.
Mô hình lò phản ứng sử dụng Thorium
Thorium so với uranium
 Thorium là một lựa chọn hấp dẫn thay thế 
uranium đối với nhiều quốc gia. Nó vừa rẻ lại có 
nhiều hơn uranium, giá cả urani sẽ tăng khi phản 
ứng dữ dội từ thảm hoạ Fukushima nguội dần đi. 
Còn có những lợi ích khác từ thorium. Trong một 
phản ứng hạt nhân phát điện bằng thorium, hầu 
hết thorium tự bị tiêu tán hết, như vậy sẽ ít chất 
thải hơn, phần lớn chất thải còn lại không nguy 
hại trong 30 năm. Hiện nay, nguyên liệu chất 
thải hạt nhân nguy hại nhất phải được lưu giữ 
trong suốt 10.000 năm. Ngoài ra, một tấn thorium 
tương đương với 200-250 tấn urani xét về hiệu 
quả trong một lò phản ứng nước nhẹ hoặc nước 
nặng; tương đương 3,5 triệu tấn than. 
 Việc chiết tách thorium ít tốn kém hơn so 
với chiết tách urani tính theo đơn vị năng lượng, 
bởi vì thorium hiện diện với mật độ cao hơn so 
với các kim loại khác xét về trọng lượng. Thorium 
cũng có đặc tính khác thường: thorium gần như 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
39Số 38 - Tháng 3/2014
không thể sử dụng được vào làm vũ khí hạt nhân 
vì nó không chứa đồng vị phân hạch. Như vậy 
thorium cũng giải quyết những vấn đề cấm phổ 
biến vũ khí hạt nhân vì những nhà máy điện hạt 
nhân từ nguồn nhiên liệu thorium chỉ sản sinh ra 
một lượng nhỏ plutonium không đủ để chế tạo 
vũ khí hạt nhân.
 Sự nguy hại của uranium-càng được nhấn 
mạnh khi xẩy ra thảm hoạ Fukushima -thường 
khiến các nhà phân tích và những người khác coi 
thorium một cách nghiêm túc hơn. Vì bản thân 
thorium không phân hạch, phản ứng có thể được 
dừng trong trường hợp khẩn cấp. Các nghiên cứu 
và khuyến nghị sử dụng thorium cho thấy có thể 
cho phép các quốc gia như Iran và Bắc Triều Tiên 
có được điện hạt nhân mà không gây lo ngại là 
các nước này bí mật phát triển vũ khí hạt nhân.
 Thorium cũng có thể được sử dụng cùng 
với phát điện hạt nhân bằng urani thông thường, 
nghĩa là một ngành công nghiệp thorium phồn 
thịnh có thể không cần thiết làm cho urani lỗi thời.
Tìm kiếm thorium ở đâu
 Thorium hiện diện với lượng nhỏ trong 
đất và đá bất cứ nơi nào, và người ta ước tính 
thorium có nhiều gấp 3-4 lần uranium, thông 
thường đất chứa hàm lượng trung bình khoảng 6 
phần triệu (ppm) của thorium (ngoài ra, thorium 
có tiềm năng năng lượng gấp 200 lần so với 
urani). Trữ lượng lớn thorium được tìm thấy ở 
Trung Quốc, Australia, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ 
và Na Uy. Còn thì thorium xuất hiện dưới dạng 
dấu vết ở bất cứ nơi nào.
 Cục Địa chất Mỹ đã lập một báo cáo các 
nguồn tài nguyên thorium ở Mỹ. Thorium được 
tìm thấy tại các tụ khoáng mạch biểu sinh, các 
tụ khoáng hàm lượng thấp và các tụ khoáng sa 
khoáng và cát đen. Thorium có thể được tìm thấy 
ở Montana, Idaho, Colorado, Carolinas, Florida 
và Georgia. Đây là một phạm vi rộng lớn có thể 
thăm dò, phát triển và khai thác thorium.
Một mẫu cục quặng chứa Thorium
 Tất nhiên, Mỹ không phải là quốc gia duy 
nhất có trữ lượng thorium lớn. Các nước khác 
nêu ở trên cũng có nguồn tài nguyên này lớn để 
các công ty năng lượng và khoáng sản quyết đinh 
phát triển tài nguyên thorium trong nước họ.
 Ở Australia, Cục Địa chất (Geoscience 
Australia) ước tính tài nguyên monazite của 
nước này khoảng 5,2 triệu tấn. Với hàm lượng 
thorium trung bình 7 %, thì có khoảng 340.000 
tấn thorium trong tài nguyên monazite này. 
Ngoài ra, Geoscience Australia cho biết nguồn 
tài nguyên tại Nolans Bore, cách Alice Springs 
135 km về phía tây bắc chứa 60.600 tấn ThiO
2
(khoảng 53.300 tấn thorium); tụ khoáng khác, 
Toongi, cách Dubbo ở New South Wales 30 km 
về phía nam chứa khoảng 35.000 tấn thorium. 
Với 3 tụ khoáng này, Australia đã có tới 452.300 
tấn thorium. 
Trần Minh Huân
Resources, Production and Demand, Uranium 
2007, Nuclear Energy Agency (June 2008), 
www.ltbridge.com, 
Investing News: Tuesday January 21, 2014 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
40 Số 38 - Tháng 3/2014
TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
Ngày 11/2/2014, Viện NLNTVN đã có 
buổi tiếp và làm việc với Đoàn chuyên gia IAEA 
về các vấn đề liên quan đến các dự án hợp tác kỹ 
thuật (VIE). Tham dự buổi làm việc có Phó Viện 
trưởng Viện NLNTVN Nguyễn Hào Quang, lãnh 
đạo Ban Hợp tác quốc tế, các đơn vị trực thuộc 
Viện NLNTVN liên quan và các chủ dự án.
Đoàn chuyên gia IAEA đã lắng nghe các 
chủ dự án báo cáo tiến độ của các dự án VIE đang 
thực hiện. Theo đó, hầu hết các dự án của Viện 
NLNTVN đều đang được thực hiện đúng tiến độ. 
Tiếp đó, hai bên đã cùng nhau thảo luận về các dự 
án VIE sắp tới do Viện NLNTVN làm chủ dự án 
và các dự án footnote A của Viện NLNTVN. Phía 
IAEA cũng cho biết, vào tháng 3/2014, IAEA sẽ 
có phái đoàn thanh tra tình hình thực hiện các dự 
án VIE và tiếp nhận các đề xuất cho giai đoạn tiếp 
theo (2016-2017).
Phó viện trưởng Nguyễn Hào Quang 
khẳng định mối quan hệ hợp tác với IAEA là một 
trong những mối quan hệ chiến lược của Viện 
NLNTVN. Phó Viện trưởng cám ơn sự hỗ trợ và 
giúp đỡ của IAEA đối với Viện NLNTVN nói 
riêng và Việt Nam nói chung, hy vọng sự hợp tác 
giữa hai bên sẽ ngày càng thắt chặt và đạt hiệu 
quả cao hơn nữa.Đáp lại, Đoàn IAEA khẳng định 
sẽ tiếp tục quan tâm tới tình hình thực hiện các 
dự án ở Việt Nam và sẽ hết sức giúp đỡ Việt Nam 
trong thời gian tới.
Đoàn Thị Thu Hương
 Trong thời gian 2 ngày từ 22 đến 
23/01/2014, tại trụ sở 59 Lý Thường Kiệt, Hà 
Nội, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã làm 
việc với Nhóm chuyên gia của Tập đoàn Năng 
lượng hạt nhân nhà nước Nga (ROSATOM) và 
Tổng Công ty Xuất khẩu năng lượng hạt nhân 
Nga (ATOMSTROYEXPORT) về nhiệm vụ lập 
Dự án đầu tư (Báo cáo nghiên cứu khả thi – FS) 
và Hồ sơ phê duyệt địa điểm (SAD - đối với thành 
phần Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu) của dự 
án Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân 
(CNEST). Dự án CNEST do Liên bang Nga hỗ 
trợ Việt Nam xây dựng về tài chính và công nghệ.
 Trong thời gian làm việc, Viện Năng 
lượng nguyên tử Việt Nam đã cập nhật cho phía 
bạn về tình hình công tác chuẩn bị dự án của phía 
VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT 
NAM TIẾP ĐOÀN CHUYÊN GIA TỚI TỪ 
IAEA
THẢO LUẬN VỚI ROSATOM VỀ DỰ ÁN 
TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG 
NGHỆ HẠT NHÂN -CNEST
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
41Số 38 - Tháng 3/2014
Việt Nam và khẳng định yêu cầu của Việt Nam là 
đầu tư xây dựng công trình Trung tâm Khoa học 
và công nghệ hạt nhân phải đảm bảo hiệu quả đầu 
tư và đáp ứng các mục tiêu của dự án. Trong các 
mục tiêu của dự án, mục tiêu đào tạo phát triển 
nguồn nhân lực khoa học - kỹ thuật trình độ cao 
cho chương trình điện hạt nhân quốc gia và ứng 
dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ trong phát triển 
kinh tế - xã hội là hết sức cần thiết hiện nay và do 
đó Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đề nghị 
phía Nga xem xét việc các chuyên gia của Việt 
Nam cùng tham gia với chuyên gia của Nga trong 
quá trình tính toán, thiết kế lập Dự án đầu tư xây 
dựng công trình.
 Hai bên ghi nhận nỗ lực hợp tác khoa học 
– kỹ thuật về năng lượng nguyên tử giữa hai bên 
trước đây và đặc biệt trong dự án Trung tâm Khoa 
học và công nghệ hạt nhân hiện nay.
 Nhân dịp sắp kỷ niệm 30 năm (3/1984-
3/2014) ngày khôi phục hoạt động Lò phản ứng 
hạt nhân Đà Lạt với sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), 
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã trân 
trọng chuyển thư mời của Lãnh đạo Bộ Khoa 
học và Công nghệ đến Lãnh đạo và các chuyên 
gia khoa học Tập đoàn Năng lượng hạt nhân nhà 
nước Nga tham dự sự kiện có ý nghĩa này của 
Ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam. Nhóm 
chuyên gia Nga bày tỏ sự ủng hộ Viện Năng 
lượng nguyên tử Việt Nam tổ chức sự kiện này và 
sẽ báo cáo Lãnh đạo cử cán bộ tham dự.
Mai Đình Trung
 Vào ngày 17/03/2014, Viện Năng lượng 
nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) đã tiếp đón 
GS. Sevostian Bechta – Trưởng khoa An toàn 
điện hạt nhân tại Học viện công nghệ Hoàng gia 
Thụy Điển (KTH) tới thăm và làm việc với mục 
đích mở ra nhiều phương hướng hợp tác và tạo 
cơ hội cho các chuyên gia trong ngành hạt nhân 
tại Việt Nam có thể cùng bàn luận và chia sẻ kinh 
nghiệm.
 Trong ngày làm việc tại Hà Nội của mình, 
GS. Sevostian Bechta đã có 2 buổi hội thảo tới Viện 
Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Viện KHKTHN) 
và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Tại đây, 
GS. Bechta đã trình bày những thông tin rất tổng 
quan về những lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới 
Điện hạt nhân của Học viện công nghệ Hoàng gia 
Thụy Điển – KTH cũng như một vài các quy trình 
mô phỏng thực nghiệm liên quan tới sự cố nặng 
và an toàn nhà máy điện hạt nhân. Các nghiên cứu 
hiện tại về vấn đề này đang được phát triển rất 
chuyên sâu tại KTH, bởi yêu cầu của chính phủ 
Thụy Điển về việc không cho phép bất cứ nhiên 
vật liệu phóng xạ nào được phép rò rỉ ra bên ngoài 
nhà lò trong trường hợp có sự cố nặng xảy ra.
VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT 
NAM TIẾP ĐÓN GS. SEVOSTIAN BECHTA
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
42 Số 38 - Tháng 3/2014
 Trong suốt quá trình trao đổi thông tin 
trong 2 buổi hội thảo, Viện NLNTVN và Viện 
KHKTHN đã trình bày một cách tổng quát nhất 
về những nghiên cứu liên quan tới công nghệ 
điện hạt nhân và an toàn hạt nhân mà cả 2 tổ chức 
đã, đang và sẽ thực hiện. Trong đó, dự án Trung 
tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân (CNEST) 
và các dự định phát triển nhân lực do Viện trưởng 
Viện NLNTVN- TS. Trần Chí Thành trình bày 
được coi là nổi bật nhất.
 Qua quá trình trao đổi bàn luận, GS.Bechta 
đã đưa ra quan điểm của mình về những Việt Nam 
nên làm và cần làm đối với cả 2 dự án điện hạt 
nhân này. Trong đó, ông cho rằng Việt Nam nên 
có 2 nhóm nghiên cứu độc lập đối với cả 2 dự án 
điện hạt 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ky_niem_30_nam_ngay_khanh_thanh_cong_trinh_khoi_phuc_mo_rong.pdf ky_niem_30_nam_ngay_khanh_thanh_cong_trinh_khoi_phuc_mo_rong.pdf