Kỷ niệm 30 năm ngày khánh thành công trình khôi phục, mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và đón nhận huân chương độc lập hạng ba

Sáng ngày 20/3/2014 tại thành phố Đà Lạt, Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN), Viện Năng

lượng Nguyên tử (NLNT) Việt Nam đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm ngày khánh thành

Công trình khôi phục, mở rộng Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và Đón nhận Huân chương Độc

lập hạng Ba.

pdf48 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kỷ niệm 30 năm ngày khánh thành công trình khôi phục, mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và đón nhận huân chương độc lập hạng ba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương mại hóa sẽ là vào khoảng năm 2035. Về lý thuyết, phương thức chuyển hóa hạt nhân sẽ hoạt động trên nguyên lý các nguyên tố siêu urani được đưa vào môi trường có thông lượng neutron rất cao trong một thời gian dài, có thể lên tới vài năm. Và trong phần bài viết này, tác giả sẽ đánh giá những phương thức kỹ thuật khác nhau được coi là có thể đạt được tỷ lệ chuyển hóa thành công đáng chú ý. Nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất Nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất là nhiên liệu mà trong đó các nguyên tố siêu urani được đưa vào nhiên liệu hạt nhân với lượng rất nhỏ so với tổng thể nhiên liệu. Những phương án đơn giản nhất đã được cân nhắc, ví dụ như kết hợp Np-237 vào trong nhiên liệu oxit hỗn hợp urani và plutoni trong lò neutron nhiệt hoặc neutron nhanh. Các hạt nhân Np-237 sẽ nằm trong môi trường có thông lượng neutron khá cao của lò phản ứng trong khoảng 4-5 năm, bằng thời gian bó nhiên liệu tồn tại trong vùng hoạt, trong thời gian này, một lượng nhất định các hạt nhân Np- 237 sẽ bị chuyển hóa, con số này tùy thuộc thiết kế lò. Hạt nhân Np-237 được coi là khá phù hợp với loại nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất, nhưng đối với americi và curi thì hoan toàn ngược lại. Về nhiều khía cạnh, nhiên liệu chuyển hóa đồng nhất được coi là phương án kỹ thuật đơn giản nhất, bởi thiết kế kỹ thuật cũng như tính năng vật liệu của bó nhiên liệu chỉ bị ảnh hưởng rất ít bởi sự có mặt cua Np-237 và hàm lượng Np-237 trong bó nhiên liệu chỉ giới hạn ở mức vài phần trăm.Tuy nhiên, việc đưa Np-237 vào nhiên liệu sẽ cần có các kỹ thuật chế biến nhiên liệu điều khiển từ xa, và chi phí gia tăng trong việc sản xuất nhiên liệu là nhược điểm khá lớn của phương án này. Phương án chuyển hóa dị thể Phương án chuyển hóa dị thể này được thực hiện dựa trên nguyên lý đưa các nguyên tố siêu urani vào những bó nhiên liệu đặc thù, khác biệt so với những bó nhiên liệu thông thường trong vùng hoạt. Những bó nhiên liệu đặc thù này THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 34 Số 38 - Tháng 3/2014 được đặt ở vị trí có thông lượng neutron phù hợp đủ để bắn phá các hạt nhân trong đó. Phương án chuyển hóa dị thể này được coi là phù hợp hơn đối với các hạt nhân americi và curi. Miêu tả cơ bản về nhiên liệu chuyển hóa dị thể và đồng nhất Những bó nhiên liệu đặc thù trong chuyển hóa dị thể sẽ làm phức tạp hóa thiết kế vùng hoạt, bởi sẽ tồn tài những loại bó nhiên liệu khác biệt trong vùng hoạt, gồm những bố có thiết kế có yếu tố điều hướng và những bó có thiết kế mục tiêu phân hạch (các bó nhiên liệu đặc thù). Tuy nhiên, đa số những bó nhiên liệu là kiểu điều hướng không chứa các nguyên tố siêu urani, và chỉ có một lượng nhỏ các bó nhiên liệu là chứa các nguyên tố siêu urani nên chỉ môt lượng nhỏ bó nhiên liệu là cần được sản xuất bằng kỹ thuật điều khiển từ xa. Những lợi thế khác của phương án này là những bó nhiên liệu đặc thù có thể được thiết kế nhằm tối ưu hóa quá trình chuyển hóa hạt nhân. Về cụ thể, nếu các bó nhiên liệu đặc thù sử dụng ma trận chất trơ để chứa các nguyên tố siêu urani thì việc các nguyên tố siêu urani tiếp tục được tạo ra do U-238 hấp thụ neutron sẽ được hạn chế hơn. Phương án chuyển hóa dị thể cũng phù hợp với nhiều quy trình tái xử lý khác nhau, cho phép gia tăng tỷ lệ chuyển hóa thành công. Tuy nhiên, quá trình chế tạo những bó nhiên liệu đặc thù không có urani sẽ rất khó khăn và sẽ yêu cầu có những nhà máy sản xuất và tái xử lý riêng. Lò neutron nhanh Trong một lò phản ứng neutron nhanh, tỷ lệ phân hạch của các nguyên tố siêu urani là khá cao và là đây cũng là lý do tại sao cộng đồng quốc tế luôn cân nhắc rằng lò neutron nhanh là phương án phù hợp nhất đối với việc thực hiện chuyển hóa hạt nhân các nguyên tố siêu urani. Tiết diện phản ứng chuyển hóa của các hạt nhân nói chung là khá thấp, vì vậy sẽ cần có một môi trường với thông lượng neutron rất cao và lò neutron nhanh đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên, việc nạp vào một lượng lớn các nguyên tố siêu urani trong lò nhanh là không nên bởi vì khả năng kiểm soát độ phản ứng cũng như các hiệu ứng phản hồi của lò neutron nhanh không hiệu quả bằng các lò phản ứng neutron nhiệt (đây là vấn đề phụ thuộc khá nhiều vào thiết kế và cần được cân nhắc trong quá trình phát triển trong tương lai). Một trong những phương án khả thi cho việc sử dụng chuyển hóa hạt nhân bằng lò neutron nhanh là sử dụng các bó nhiên liệu mục tiêu chuyển hóa có vật liệu điều chỉnh, vật liệu điều chỉnh ở đây thường được dùng là Zirconium hydride nhằm làm chậm neutron sinh ra từ các bó THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 35Số 38 - Tháng 3/2014 nhiên liệu kiểu điều hướng. Đối với các neutron ở mức năng lượng nhiệt thì tiết diện phản ứng sẽ lớn hơn và việc tăng cường tiết diện phản ứng cũng như thông lượng neutron nhiệt cao sẽ gia tăng tỷ lệ chuyển hóa thành công. Trên thực tế, Các lò phản ứng neutron nhiệt cũng có thể đạt được 1 tỷ lệ chuyển hóa hạt nhân đáng kể. Tuy nhiên, sự cân bằng giữa lượng neutron tạo ra phân hạch và lượng neutron tạo ra hấp thụ không thuận lợi cho chuyển hóa hạt nhân lắm và thông lượng neutrong trong lò neutron nhiệt cũng nhỏ hơn so với lò neutron nhanh. Tuy nhiên, tiết diện phản ứng với neutron nhiệt của các nguyên tố siêu urani lại khá lớn nên tỷ lệ chuyển hóa hạt nhân thành công của 2 lò này là khá tương tự nhau. Về chi tiết, Am-241 có thể được chuyển hóa rất hiệu quả trong các lò neutron nhiệt, chỉ qua một chu trình chiếu xạ nhiên liệu, có tới khoảng 70% hạt nhân đồng vị này bị phá hủy. Hạn chế lớn nhất của các lò neutron nhiệt là hàm lượng các nguyên tố siêu urani đưa vào trong lò bị giới hạn nhằm tránh những tác động không tốt tới việc kiểm soát độ phản ứng vùng hoạt và các đặc tính phản hồi của độ phản ứng (reactivity feedback). Cũng bởi những điều cần cân nhắc này, tiềm năng chuyển hóa hạt nhân trong lò neutron nhiệt không được quan tâm nhiều bằng lò neutron nhanh. Tuy vậy, tiềm năng của lò neutron nhiệt hiện tại vẫn lớn hơn bởi hiện tại đã có khoảng hơn 400 lò neutron nhiệt đang vận hành trên thế giới, trong khi chỉ có một vài mẫu thử nghiệm lò nhanh đang tồn tại. Nếu hội đồng quốc tế thực sự nghiêm túc đối với việc thực thi chuyển hóa hạt nhân quy mô thương mại thì các lò neutron nhiệt luôn sẵn sàng, nhưng đối với lò neutron nhanh thì cần có một thời gian nghiên cứu nữa. Các lò neutron nhiệt sẽ rất hữu ích trong việc thử nghiệm chuyển hóa hạt nhân trong khi chúng ta vẫn tiếp tục nghiên cứu phát triển lò nhanh. Các hệ thống dưới tới hạn điều khiển bằng máy gia tốc Một hệ thống dưới tới hạn điều khiển bởi máy gia tốc (ADS) là một hệ thống sử dụng tia proton với mức năng lượng cực cao (khoảng 1 GeV) nhằm tạo ra sự phá vỡ hạt nhân mục tiêu và phát tán ra nhiều neutron. Các neutron bị phát tán ra được khuếch đại bởi một vùng hoạt phân hạch dưới tới hạn. Vùng hoạt dưới tới hạn này thường được vận hành với hệ số nhân k vào khoảng từ 0.95-0.98, và nó khuếch đại các neutron phát tán với trị số khoảng từ 20-50 ( tính bằng công thức = 1/(1-k) ). Một vùng hoạt dưới tới hạn có thể vận hành ở trạng thái ổn định mà không cần nguồn cung cấp bổ sung neutron nào và nguồn neutron phát tán sẽ cung cấp đủ thông lượng neutron cần thiết và giữ mức công suất ổn định. Với một hệ số nhân nhất định, mức độ năng lượng tạo ra sẽ tỷ lệ tuyến tính với độ mạnh của nguồn neutron phát tán, và độ mạnh này được quyết định bởi dòng proton. Hệ thống ADS được coi là khá phù hợp đối với phương thức chuyển hóa hạt nhân. Phổ neutron của hệ thống này khá linh động và chúng ta có thể đưa ra các thiết kế nhằm điều chỉnh phổ neutron ở các mức năng lượng khác nhau ở những vị trí khác nhau sao cho phù hợp với yêu cầu của quy trình chuyển hóa hạt nhân các nguyên tố siêu urani. Khả năng kiểm soát độ phản ứng và phản hồi độ phản ứng của hệ thống ADS được coi là không có độ nhạy cao bằng cá lò phản ứng tới hạn, tuy nhiên điều này cần được làm rõ thêm khi các thiết kế đã được nghiên cứu và triển khai thí nghiệm kỹ lưỡng. Mức năng lượng cần thiết đối với dòng proton trong hệ thống ADS là cao hơn rất nhiều THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 36 Số 38 - Tháng 3/2014 so với những hệ thống máy gia tốc thí nghiệm thông thường và đây cũng là một trở ngại không hề nhỏ. Ngoài ra việc đạt được trạng thái vận hành ổn định đáng tin cậy đối với những dòng proton cũng là một vấn đề. Ảnh hưởng của chuyến hóa hạt nhân tới quá trình lưu trữ, phân hủy chất thải dưới lòng đất Trong thời gian gần đây, một nhóm chuyên gia thuộc tổ chức NEA của khối các quốc gia OECD đã đánh giá các nghiên cứu quốc tế về ảnh hưởng của việc phân tách và chuyển hóa hạt nhân các nguyên tố siêu urani đối với những loại cơ sở phân hủy chất thải hạt nhân trong lòng đất khác nhau. Và nhóm chuyên gia này đã kết luận rằng những quá trình chuyển hóa hạt nhân sẽ không thể nào thay thế hoàn toàn chiến lược phân hủy chất thải duois lòng đất, bởi những sản phẩm phân hạch có thời gian sống lâu dài và các hạt nhân phóng xạ khác vẫn còn tồn tại trong chất thải từ các lò phản ứng và vẫn cần được quản lý. Các điều kiện địa chất tại các cơ sở khác nhau sẽ xác định được khả năng linh động của các hạt nhân phóng xạ khác nhau. Ví dụ, tại một cơ sở với điều kiện nước ngầm hạn chế, như ở Anh, thì khả năng hòa tan các ions của các nguyên tố siêu nặng sẽ rất thấp và các nguyên tố này sẽ vẫn không bị hòa tan ra môi trường cho dù trải qua một thời gian dài. Vì vậy nên hoạt độ phóng xạ lúc đó sẽ chủ yếu được quyết định bởi ion phóng xạ dễ tan trong các sản phẩm phân hạch, khi đó việc giảm bớt đi các nguyên tố siêu urani sẽ không có nhiều ý nghĩa trong việc kiểm soát hoạt độ phóng xạ môi trường. Các đánh giá của nhóm chuyên gia của NEA đối với các cơ sở phân hủy dưới lòng đất đặt ở những nơi có nền tảng địa chất chứa nhiều vật liệu núi lửa chưa bão hòa (VD như núi Yucca), trong các thành tạo phiến sét (sét và đá bùn không thấm nước) và trong các thành tạo đá kết tinh, và co điều kiện thành tạo môi trường muối, tất cả các điều kiện này đều có khả năng như nhau. Nhóm chuyên gia NEA cũng đã cân nhắc tới việc phân hủy trong lỗ khoan sâu và nhấn mạnh rằng sự chênh lệch độ mặn giữa phần sâu nhất của lỗ khoan và phần nước gần bề mặt sẽ ngăn ngừa các hạt nhân phón xạ di chuyển vào môi trường nước ngầm. Trích dẫn từ một trong những nghiên cứu quốc tế được tham khảo bởi nhóm chuyên gia NEA thì việc tách chiết và chuyển hóa hạt nhân là “gần như không gây ảnh hưởng gì tới tác động bức xạ trong điều kiện phát triển bình thường của kho lưu trữ” và “ hệ thống lưu trữ trong long đất rất hiệu quả trong việc giảm khả năng di chuyển của các nguyên tố siêu urani, và liều chiếu tới từ những nguyên tố này được hạn chế tối đa”. Nhằm bổ sung cho kết luận này, nhóm chuyên gia NEA cũng đã nhấn mạnh rằng sự hư hỏng của những thiết bị lưu trữ là không có quy luật nhất định, những kiện chất thải khác nhau thì có khả năng hư hỏng khác nhau. Trong những trường hợp này, nhóm chuyên gia NEA cũng đã cân nhắc rằng có thể sẽ có hiệu ứng thứ nguyên trong những độc tố bức xạ khi mà các kiện chất thải bắt đầu hư hỏng. Cuối cùng, nhóm chuyên gia này cũng đã đề cập rằng việc chuyển hóa hạt nhân các nguyên tố siêu urani sẽ giảm được lượng nhiệt phân rã từ chất thải hạt nhân và có khả năng có lợi cho việc xây dựng thiết kế cơ sở lưu trữ chất thải. Ngoài ra thì, khi chúng ta làm giảm được mức độc tố phóng xạ nhờ chuyển hóa hạt nhân thì cũng sẽ giảm được sự bất ổn trong các biến đổi bên trong cơ sở lưu trữ dưới long đất, điều này thực sự có lợi cho việc thi công xây dựng an toàn. Đỗ Văn Lâm, Biên dịch và Tổng hợp THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 37Số 38 - Tháng 3/2014 Thorium xuất hiện trong đất và đá, là một chất thải trong khai thác đất hiếm từ cát monazite, có thể mang lại niềm hứa hẹn quan trọng là một nhiên liệu thay thế cho uranium trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân. Khi mà tiêu thụ năng lượng toàn cầu tăng lên, thorium đang được xem xét là một lựa chọn có thể thay thế urani để cung cấp điện hạt nhân dồi dào và an toàn với một chi phí hợp lý. Ví dụ, Ấn Độ đã quan tâm đến năng lượng hạt nhân nguồn thorium từ nhiều thập kỷ. Lò phản ứng nghiên cứu Kamini 30 kWth sử dụng U-233, thu hồi từ nhiên liệu ThO 2 được chiếu xạ trong một lò phản ứng khác, khởi động trong năm 1996 gần thành phố Kalpakkam. Lò phản ứng được xây dựng gần ngay lò phản ứng thử nghiệm tái sinh nhanh 40 MWt, ThO2 được chiếu xạ trong lò phản ứng tái sinh này. Thorium đang được nghiên cứu Câu hỏi về thorium hoạt động như thế nào để tạo ra năng lượngđã được trả lời trong năm 2013, khi một công ty tư nhân Na Uy, Thor Energy, bắt đầu sản xuất ra điện năng tại lò phản ứng thử nghiệm của Công ty ở Halden, Na Uy với thorium. “Đây là bước đi cơ bản đầu tiên trong tiến triển thorium,”, Oystein Asphjell, CEO của Thor Energy, nói với hãng tin Reuters. Cơ sở thử nghiệm của Thor Energy Thorium được nhà hoá học Thụy Điển Jons Jakob Berzelius phát hiện ra trong năm 1828 và được đặt tên là Thor, Thần sấm sét Bắc Âu. Trong năm 1989, Gerhard Carl Schmidt và Marie Curie cùng phát hiện ra thorium là kim loại phóng xạ. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 38 Số 38 - Tháng 3/2014 Công ty hạt nhân khổng lồ Westinghouse, một đơn vị của Toshiba, là một thành viên của một tổ hợp quốc tế do Thor Energy lập ra để đầu tư và quản lý các cuộc thí nghiệm. Là một công ty đang nghiên cứu sử dụng thorium làm nhiên liệu hạt nhân, Thor Energy đã lập ra một tổ hợp quốc tế với chức năng đầu tư tài chính và quản trị các cuộc thí nghiệm thorium. Một trong những thành viên của tổ hợp là không ai khác hơn là Westinghouse, một công ty được lập ra để sản xuất năng lượng hạt nhân; công ty này đưa ra những quan điểm nghiên cứu. Nhưng Thor Energy không chỉ là công ty tham gia nghiên cứu xem liệu thorium có thể là nguồn quan trọng thay thế uranium trong công nghiệp năng lượng hạt nhân. Các công ty từ Mỹ, Australia và Cộng hoà Czech cũng đang thiết kế lò phản ứng thorium và nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của công nghệ năng lượng sử dụng thorium. Tuy nghiên, Thor Energy là công ty đầu tiên bắt đầu sản xuất năng lượng bằng thorium. Năng lượng thorium hoạt động như thế nào Không giống như uranium, thorium không thể tách ra để tạo ra một phản ứng dây chuyền hạt nhân, nó không phân hạch. Tuy nhiên, nếu nó bị bắn phá bằng các neutron từ một nhiên liệu phân hạch, như uranium-235 hoặc plutonium-239; hạt nhân thorium hấp thụ các neutron dư thừa, các neutron được điều tiết có thể tạo ra U-233, một đồng vị phân hạch mà loại đồng vị này không tồn tại trong tự nhiên. U-233 này giải phóng đủ năng lượng để kích hoạt gia tốc phân tử, cộng thêm phần dư thừa có thể chạy một nhà máy điện. Đây là một quá trình phức tạp, bao gồm những cơ chế muối nóng chẩy trong lò phản ứng (MSR) so với lò phản ứng nước áp lực trong quá trình đốt cháy thorium, nhưng phản ứng như mô tả ở trên là điều hấp dẫn chủ yếu của thorium, và hứa hẹn về nguyên tắc sử dụng thorium. Mô hình lò phản ứng sử dụng Thorium Thorium so với uranium Thorium là một lựa chọn hấp dẫn thay thế uranium đối với nhiều quốc gia. Nó vừa rẻ lại có nhiều hơn uranium, giá cả urani sẽ tăng khi phản ứng dữ dội từ thảm hoạ Fukushima nguội dần đi. Còn có những lợi ích khác từ thorium. Trong một phản ứng hạt nhân phát điện bằng thorium, hầu hết thorium tự bị tiêu tán hết, như vậy sẽ ít chất thải hơn, phần lớn chất thải còn lại không nguy hại trong 30 năm. Hiện nay, nguyên liệu chất thải hạt nhân nguy hại nhất phải được lưu giữ trong suốt 10.000 năm. Ngoài ra, một tấn thorium tương đương với 200-250 tấn urani xét về hiệu quả trong một lò phản ứng nước nhẹ hoặc nước nặng; tương đương 3,5 triệu tấn than. Việc chiết tách thorium ít tốn kém hơn so với chiết tách urani tính theo đơn vị năng lượng, bởi vì thorium hiện diện với mật độ cao hơn so với các kim loại khác xét về trọng lượng. Thorium cũng có đặc tính khác thường: thorium gần như THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 39Số 38 - Tháng 3/2014 không thể sử dụng được vào làm vũ khí hạt nhân vì nó không chứa đồng vị phân hạch. Như vậy thorium cũng giải quyết những vấn đề cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vì những nhà máy điện hạt nhân từ nguồn nhiên liệu thorium chỉ sản sinh ra một lượng nhỏ plutonium không đủ để chế tạo vũ khí hạt nhân. Sự nguy hại của uranium-càng được nhấn mạnh khi xẩy ra thảm hoạ Fukushima -thường khiến các nhà phân tích và những người khác coi thorium một cách nghiêm túc hơn. Vì bản thân thorium không phân hạch, phản ứng có thể được dừng trong trường hợp khẩn cấp. Các nghiên cứu và khuyến nghị sử dụng thorium cho thấy có thể cho phép các quốc gia như Iran và Bắc Triều Tiên có được điện hạt nhân mà không gây lo ngại là các nước này bí mật phát triển vũ khí hạt nhân. Thorium cũng có thể được sử dụng cùng với phát điện hạt nhân bằng urani thông thường, nghĩa là một ngành công nghiệp thorium phồn thịnh có thể không cần thiết làm cho urani lỗi thời. Tìm kiếm thorium ở đâu Thorium hiện diện với lượng nhỏ trong đất và đá bất cứ nơi nào, và người ta ước tính thorium có nhiều gấp 3-4 lần uranium, thông thường đất chứa hàm lượng trung bình khoảng 6 phần triệu (ppm) của thorium (ngoài ra, thorium có tiềm năng năng lượng gấp 200 lần so với urani). Trữ lượng lớn thorium được tìm thấy ở Trung Quốc, Australia, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Na Uy. Còn thì thorium xuất hiện dưới dạng dấu vết ở bất cứ nơi nào. Cục Địa chất Mỹ đã lập một báo cáo các nguồn tài nguyên thorium ở Mỹ. Thorium được tìm thấy tại các tụ khoáng mạch biểu sinh, các tụ khoáng hàm lượng thấp và các tụ khoáng sa khoáng và cát đen. Thorium có thể được tìm thấy ở Montana, Idaho, Colorado, Carolinas, Florida và Georgia. Đây là một phạm vi rộng lớn có thể thăm dò, phát triển và khai thác thorium. Một mẫu cục quặng chứa Thorium Tất nhiên, Mỹ không phải là quốc gia duy nhất có trữ lượng thorium lớn. Các nước khác nêu ở trên cũng có nguồn tài nguyên này lớn để các công ty năng lượng và khoáng sản quyết đinh phát triển tài nguyên thorium trong nước họ. Ở Australia, Cục Địa chất (Geoscience Australia) ước tính tài nguyên monazite của nước này khoảng 5,2 triệu tấn. Với hàm lượng thorium trung bình 7 %, thì có khoảng 340.000 tấn thorium trong tài nguyên monazite này. Ngoài ra, Geoscience Australia cho biết nguồn tài nguyên tại Nolans Bore, cách Alice Springs 135 km về phía tây bắc chứa 60.600 tấn ThiO 2 (khoảng 53.300 tấn thorium); tụ khoáng khác, Toongi, cách Dubbo ở New South Wales 30 km về phía nam chứa khoảng 35.000 tấn thorium. Với 3 tụ khoáng này, Australia đã có tới 452.300 tấn thorium. Trần Minh Huân Resources, Production and Demand, Uranium 2007, Nuclear Energy Agency (June 2008), www.ltbridge.com, Investing News: Tuesday January 21, 2014 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 40 Số 38 - Tháng 3/2014 TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ Ngày 11/2/2014, Viện NLNTVN đã có buổi tiếp và làm việc với Đoàn chuyên gia IAEA về các vấn đề liên quan đến các dự án hợp tác kỹ thuật (VIE). Tham dự buổi làm việc có Phó Viện trưởng Viện NLNTVN Nguyễn Hào Quang, lãnh đạo Ban Hợp tác quốc tế, các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN liên quan và các chủ dự án. Đoàn chuyên gia IAEA đã lắng nghe các chủ dự án báo cáo tiến độ của các dự án VIE đang thực hiện. Theo đó, hầu hết các dự án của Viện NLNTVN đều đang được thực hiện đúng tiến độ. Tiếp đó, hai bên đã cùng nhau thảo luận về các dự án VIE sắp tới do Viện NLNTVN làm chủ dự án và các dự án footnote A của Viện NLNTVN. Phía IAEA cũng cho biết, vào tháng 3/2014, IAEA sẽ có phái đoàn thanh tra tình hình thực hiện các dự án VIE và tiếp nhận các đề xuất cho giai đoạn tiếp theo (2016-2017). Phó viện trưởng Nguyễn Hào Quang khẳng định mối quan hệ hợp tác với IAEA là một trong những mối quan hệ chiến lược của Viện NLNTVN. Phó Viện trưởng cám ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ của IAEA đối với Viện NLNTVN nói riêng và Việt Nam nói chung, hy vọng sự hợp tác giữa hai bên sẽ ngày càng thắt chặt và đạt hiệu quả cao hơn nữa.Đáp lại, Đoàn IAEA khẳng định sẽ tiếp tục quan tâm tới tình hình thực hiện các dự án ở Việt Nam và sẽ hết sức giúp đỡ Việt Nam trong thời gian tới. Đoàn Thị Thu Hương Trong thời gian 2 ngày từ 22 đến 23/01/2014, tại trụ sở 59 Lý Thường Kiệt, Hà Nội, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã làm việc với Nhóm chuyên gia của Tập đoàn Năng lượng hạt nhân nhà nước Nga (ROSATOM) và Tổng Công ty Xuất khẩu năng lượng hạt nhân Nga (ATOMSTROYEXPORT) về nhiệm vụ lập Dự án đầu tư (Báo cáo nghiên cứu khả thi – FS) và Hồ sơ phê duyệt địa điểm (SAD - đối với thành phần Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu) của dự án Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân (CNEST). Dự án CNEST do Liên bang Nga hỗ trợ Việt Nam xây dựng về tài chính và công nghệ. Trong thời gian làm việc, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã cập nhật cho phía bạn về tình hình công tác chuẩn bị dự án của phía VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM TIẾP ĐOÀN CHUYÊN GIA TỚI TỪ IAEA THẢO LUẬN VỚI ROSATOM VỀ DỰ ÁN TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN -CNEST THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 41Số 38 - Tháng 3/2014 Việt Nam và khẳng định yêu cầu của Việt Nam là đầu tư xây dựng công trình Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân phải đảm bảo hiệu quả đầu tư và đáp ứng các mục tiêu của dự án. Trong các mục tiêu của dự án, mục tiêu đào tạo phát triển nguồn nhân lực khoa học - kỹ thuật trình độ cao cho chương trình điện hạt nhân quốc gia và ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ trong phát triển kinh tế - xã hội là hết sức cần thiết hiện nay và do đó Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đề nghị phía Nga xem xét việc các chuyên gia của Việt Nam cùng tham gia với chuyên gia của Nga trong quá trình tính toán, thiết kế lập Dự án đầu tư xây dựng công trình. Hai bên ghi nhận nỗ lực hợp tác khoa học – kỹ thuật về năng lượng nguyên tử giữa hai bên trước đây và đặc biệt trong dự án Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân hiện nay. Nhân dịp sắp kỷ niệm 30 năm (3/1984- 3/2014) ngày khôi phục hoạt động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt với sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã trân trọng chuyển thư mời của Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đến Lãnh đạo và các chuyên gia khoa học Tập đoàn Năng lượng hạt nhân nhà nước Nga tham dự sự kiện có ý nghĩa này của Ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam. Nhóm chuyên gia Nga bày tỏ sự ủng hộ Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam tổ chức sự kiện này và sẽ báo cáo Lãnh đạo cử cán bộ tham dự. Mai Đình Trung Vào ngày 17/03/2014, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN) đã tiếp đón GS. Sevostian Bechta – Trưởng khoa An toàn điện hạt nhân tại Học viện công nghệ Hoàng gia Thụy Điển (KTH) tới thăm và làm việc với mục đích mở ra nhiều phương hướng hợp tác và tạo cơ hội cho các chuyên gia trong ngành hạt nhân tại Việt Nam có thể cùng bàn luận và chia sẻ kinh nghiệm. Trong ngày làm việc tại Hà Nội của mình, GS. Sevostian Bechta đã có 2 buổi hội thảo tới Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Viện KHKTHN) và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Tại đây, GS. Bechta đã trình bày những thông tin rất tổng quan về những lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới Điện hạt nhân của Học viện công nghệ Hoàng gia Thụy Điển – KTH cũng như một vài các quy trình mô phỏng thực nghiệm liên quan tới sự cố nặng và an toàn nhà máy điện hạt nhân. Các nghiên cứu hiện tại về vấn đề này đang được phát triển rất chuyên sâu tại KTH, bởi yêu cầu của chính phủ Thụy Điển về việc không cho phép bất cứ nhiên vật liệu phóng xạ nào được phép rò rỉ ra bên ngoài nhà lò trong trường hợp có sự cố nặng xảy ra. VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM TIẾP ĐÓN GS. SEVOSTIAN BECHTA THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 42 Số 38 - Tháng 3/2014 Trong suốt quá trình trao đổi thông tin trong 2 buổi hội thảo, Viện NLNTVN và Viện KHKTHN đã trình bày một cách tổng quát nhất về những nghiên cứu liên quan tới công nghệ điện hạt nhân và an toàn hạt nhân mà cả 2 tổ chức đã, đang và sẽ thực hiện. Trong đó, dự án Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân (CNEST) và các dự định phát triển nhân lực do Viện trưởng Viện NLNTVN- TS. Trần Chí Thành trình bày được coi là nổi bật nhất. Qua quá trình trao đổi bàn luận, GS.Bechta đã đưa ra quan điểm của mình về những Việt Nam nên làm và cần làm đối với cả 2 dự án điện hạt nhân này. Trong đó, ông cho rằng Việt Nam nên có 2 nhóm nghiên cứu độc lập đối với cả 2 dự án điện hạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfky_niem_30_nam_ngay_khanh_thanh_cong_trinh_khoi_phuc_mo_rong.pdf
Tài liệu liên quan