Sau khi đọc chương này bạn có thể:
Nhận ra các mô hình lãnh đạo tinh thần đã dẫn dắt hành vi lãnh đạo và
các mối quan hệcủa bạn nhưthếnào
Tham gia vào lối tưduy độc lập bằng cách bình tĩnh đáp lại những
quan điểm trái ngược của số đông, tưduy phê phán sâu sắc và trởnên
lưu tâm hơn là vô tâm
Phá vỡcác khuôn mẫu tưduy đã được đặt ra từtrước, và cởi mở đầu
óc của bạn để đón nhận những tưtưởng mới và những cách nhìn nhận
phối cảnh phức tạp
Ứng dụng tưduy hệthống và ưu thếcá nhân vào hoạt động của bạn
trong học tập và công việc
Rèn luyện trí tuệvềcảm xúc (emotional intelligence) bao gồm tính tự
giác, điều khiển được cảm xúc của chính bạn, tựbản thân thúc đẩy,
thểhiện sự đồng cảm và quản trị được các mối quan hệ
Ứng dụng sựkhác nhau giữa việc thúc đẩy người khác dựa vào nỗi sợ
hãi và thúc đẩy người khác dựa vào tình yêu thương.
26 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kỹ năng lãnh đạo - Chương 5: Lãnh đạo bằng lý trí và tình cảm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các nhà lãnh đạo tinh tế cảm xúc có thể có những tác động tích cực
lên tổ chức bằng cách giúp đỡ các nhân viên trưởng thành, học hỏi và phát
triển, đưa ra nhận thức về mục đích và ý nghĩa , truyền đạt dần dần tinh thần
đồng đội và đoàn kết, thiết lập các mối quan hệ tin cậy và tôn trọng lẫn nhau,
tạo điều kiện cho mỗi nhân viên dám mạo hiểu và đóng góp trọn vẹn vào
trong tổ chức.
3.4. Trí tuệ cảm xúc của nhóm
Ngày nay, hầu hết mọi công việc trong các tổ chức, thậm chí là ở mức quản
trị cấp cao thì cũng chủ yếu do các nhóm thực hiện nhiều hơn là từng cá
nhân riêng lẻ. Mặc dù, trong hầu hết các nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc đều
tập trung vào từng cá nhân, nhưng nghiên cứu này đã khơi mào lên làm nổi
bật quan tâm vấn đề trí tuệ cảm xúc quan với các nhóm như thế nào. Ví dụ
một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các nhóm bao gồm các thành viên tinh
tế về cảm xúc dù không được đào tạo vẫn đạt thành tích tốt hơn một nhóm
tuy đã được đào tạo nhưng lại kém trí tuệ cảm xúc. Ngay trong nhóm chưa
được đào tạo, trí tuệ cảm xúc cao của các thành viên khiến họ hiểu và thích
20
ứng nhanhh các yêu cầu của công việc nhóm cũng như các nhiệm vụ hiện
tại.
Hơn nữa, nghiên cứu này đã đưa ra ý kiến rằng trí tuệ cảm xúc có thể được
phát triển thành kĩ năng nhóm chứ không chỉ là kĩ năng của một cá nhân.
Nghĩa là bản thân nhóm - không chỉ là từng cá nhân thành viên riêng lẻ -
cũng có thể trở nên có trí tuệ cảm xúc. Các nhà lãnh đạo xây dựng trí tuệ
cảm xúc của nhóm bằng cách đưa ra những tiêu chuẩn hỗ trợ sự phát triển
cảm xúc và ảnh hưởng đến cảm xúc mang tính xây dựng. Các tiêu chuẩn về
trí tuệ cảm xúc của toàn nhóm là:
• Thiết lập nên một nét đặc thù nhóm
• Xây dựng sự tin cậy giữa các thành viên
• Truyền niềm tin cho các thành viên rằng họ sẽ là một nhóm hiệu quả
và thành công.
Các nhà lãnh đạo nắm bắt tình trạng cảm xúc của nhóm và tìm ra những tiêu
chuẩn không lành mạnh và không hiệu quả ức chế sự hợp tác và sự hoà hợp
nhóm. Xây dựng trí tuệ cảm xúc của nhóm nghĩa là dò tìm những quy tắc
không lành mạnh, biểu hiện các cảm xúc một cách cân nhắc và hiểu rõ cách
thức ảnh hưởng của nó đến công việc nhóm. Việc gia tăng trí tuệ cảm xúc
nhóm thật không dễ chịu chút nào, nhà lãnh đạo cần phải có cả sự can đảm
và sự am hiểu về trí tuệ cảm xúc từng cá nhân riêng rẽ để dẫn dắt nhóm theo
một tiến trình nhất định. Chỉ có cách mang cảm xúc vào một môi trường cởi
mở thì nhóm mới xây dựng được các tiêu chuẩn mới và đạt được mức độ
thoả mãn nhóm cao hơn. Các nhà lãnh đạo có thể tiếp tục xây dựng trí tuệ
cảm xúc bằng cách khuyến khích và tạo điều kiện cho nhóm thăm dò và sử
dụng cảm xúc trong công việc hàng ngày của nó.
4. Lãnh đạo bằng tình yêu hay bằng sự sợ hãi
Nhiều nhà lãnh đạo đang nhận ra rằng trong một môi trường mà sự quan
tâm và tôn trọng con người ngày càng tỏ ra hữu hiệu hơn so với kiểu lãnh
đạo khiến nhân viên lúc nào cũng phải nơm nớp sợ hãi. Tình yêu tại nơi làm
việc nghĩa là sự quan tâm chân thành đến những người khác, sẻ chia tri thức,
sự am hiểu cũng như sự đồng cảm khiến cho họ trưởng thành và thành công.
Trước đây, có thể lãnh đạo trong hầu hết các tổ chức đều dựa trên nỗi sợ hãi.
Có một quan niệm bất thành văn giữa các nhà quản trị cấp cao rằng nỗi sợ
hãi là cái gì đó tốt đẹp và là lợi ích của tổ chức. Nỗi sợ hãi thực sự là một
động lực thúc đẩy đầy sức mạnh. Khi tổ chức thành công chủ yếu dựa vào
cách các nhân viên thi hành mệnh lệnh vô điều kiện, thì khi lãnh đạo với nỗi
sợ hãi sẽ thoả mãn được các nhu cầu của các tổ chức.
Tuy nhiên, ngày nay thành công của các tổ chức lại phụ thuộc chủ yếu vào
tri thức, quyền lực chuyên môn, sự cam kết và lòng tâm huyết của mọi người
21
trong tổ chức. Một tổ chức mà dựa trên nỗi sợ hãi sẽ đánh mất những nhân
viên tài giỏi nhất cùng với những kiến thức của họ vào tay các doanh nghiệp
khác. Hơn nữa, ngay cả khi các nhân viên ở lại tổ chức đi chăng nữa, thì về
cơ bản họ vẫn không thể hiện hết năng lực thực sự còn ẩn chứa trong họ.
Trở ngại lớn nhất của kiểu lãnh đạo bằng nỗi sợ hãi là thái độ lãng tránh, bởi
vì, không ai muốn mắc bất kì một lỗi lầm nào và điều này sẽ ngăn cản sự
phát triển cũng như sự thay đổi. Các nhà lãnh đạo cần học cách kết nối giữa
các nhân viên lại với nhau, cùng chia sẻ mục đích thông qua các tác động
tích cực chẳng hạn như sự quan tâm và đồng cảm, lắng nghe và kết nối với
từng cá nhân nhân viên. Cảm xúc này lôi cuốn con người dám mạo hiểm,
học hỏi, phát triển và đưa tổ chức tiến lên phía trước bằng tình yêu chứ
không phải là nỗi sợ hãi.
Thể hiện sự tôn trọng và tin cậy không chỉ khiến cho nhân viên làm việc
hiệu quả hơn, mà nó còn làm cho nhân viên cảm thấy có sự gắn kết tình cảm
với công việc, do đó cuộc sống của họ sẽ sung túc và cân bằng hơn. Các nhà
lãnh đạo có thể dựa trên các cảm xúc tiêu cực, chẳng hạn sự sợ hãi để làm
cho công việc có hiệu quả, thế nhưng họ không hiểu rằng bằng cách này họ
đang phá huỷ dần dần tinh thần của các nhân viên,họ đang làm điều vô cùng
tệ hại với các nhân viên và tổ chức.
4.1. Nỗi sợ hãi trong các tổ chức
Có nhiều nỗi sợ hãi đè nằng trên nơi làm việc, có thể là sợ mắc phải sai lầm,
sợ thay đổi, sợ bị mất mát cá nhân, sợ va chạm, sợ ông chủ của mình... Tất
cả những nỗi sợ hãi này sẽ cản trở nhân viên làm việc hết mình, dám mạo
hiểm và dám thách thức và thay đổi tình trạng hiện tại. Nó sẽ tạo ra một bầu
không khí mà trong đó các nhân viên cảm thấy bất lực, do đó, tất cả sự tự
tin, cam kết, lòng nhiệt huyết, sức tưởng tượng và động cơ thúc đẩy của
nhân viên đều bị sụt giảm.
Các khía cạnh của nỗi sợ hãi
Khía cạnh tàn phá đặc biệt của nỗi sợ hãi tại nơi làm việc là nó làm suy yếu
sự tin cậy và truyền thông. Các nhân viên cảm thấy sợ phải nhận lấy hậu quả
nếu họ nói thẳng ra ý kiến của mình về các mối quan tâm liên quan đến công
việc. Nhân viên “bị líu lưỡi” tại nơi làm viên bởi vì họ sợ sẽ phải gánh hậu
quả. Họ lo sợ đánh mất sự tín nhiệm hoặc danh tiếng nếu họ nói thẳng ra ý
kiến của mình. Một số nỗi sợ hãi khác được kể ra chính là sợ kém thăng tiến
trong nghề nghiệp, sợ phá hủy mối quan hệ với người giám sát, bị giáng
chức hay mất việc và sợ lúng túng hoặc bị làm bẽ mặt trước người khác. Khi
nhân viên e ngại phải nói ra ý kiến của mình thì cũng là lúc những đầu ra
quan trọng bị triệt tiêu và những vấn đề bị che giấu. Các nhân viên e ngại
22
nói về vùng kết quả rộng lớn. Những điều “khó bàn luận” này có thể là về
những thành tích làm việc nghèo nàn của các đồng nghiệp, cho đến các mối
quan tâm về lợi nhuận, và hơn thế là những kiến nghị nhằm cải thiện tổ
chức. Tuy nhiên, loại lớn nhất trông số những điều không thể bàn luận chính
là thái độ của các nhà quản trị, đặc biệt là các kĩ năng quan hệ và kĩ năng
quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Khi nỗi sợ hãi bị đẩy lên cao, các nhà
quản trị đã phá tan cơ hội tiếp nhận các thông tin phản hồi, kết nối họ với
thực tại và khước từ luôn cả những cơ hội để sửa chữa những quyết định và
hành vi có hại.
Mối quan hệ với các nhà lãnh đạo
Các nhà lãnh đạo kiểm soát mức độ sợ hãi trong tổ chức. Từ kinh nghiệm
bản thân, tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận ra rằng việc báo tin buồn đến với
người này có thể dễ hơn đối với những người khác. Một người chủ hoặc là
giáo viên có thể thấu hiểu và đồng cảm thì dễ lãnh đạo hơn với người phục
tùng hơn là chỉ biết mắng mỏ và la hét họ. Mối quan hệ giữa một người nhân
viên và người giám sát là nhân tố cơ bản quyết định mức độ sợ hãi từng trải
trong công việc. Âm hưởng của nỗi sợ hãi và sự không tin cậy kết hợp với
hệ thống cấp bậc truyền thống tạo nên môi trường mà trong đó các ông chủ
ra lệnh và các nhân chỉ việc chấp nhận nhanh chóng, hoặc cố tạo nên sự tĩnh
lặng của đời sống tổ chức. Các nhà lãnh đạo có trách nhiệm thiết lập một
môi trường mới mà khiến cho các nhân viên cảm thấy an tâm khi phát biểu
chính kiến của chính mình. Các nhà lãnh đạo thường thực hiện công việc
xuất phát bởi tình yêu chứ không phải là nỗi sợ hãi.
4.2. Mang tình yêu vào trong công việc
Khi nhà lãnh đạo hành động dựa trên nỗi sợ hãi thì họ cũng tạo ra sự sợ hãi
lên các nhân viên khác. Các tổ chức thường tưởng thưởng cho nhân viên vì
có các đặc trưng chẳng hạn như tư duy hợp lý, tham vọng, và có tính cạnh
tranh. Các đặc trưng này tuy hết sức quan trọng nhưng sự chú trọng quá mức
đến nó cũng có thể khiến các nhà lãnh đạo xa rời năng lực lãnh đạo mềm
dẻo, ân cần và sáng tạo của họ, không thể kết nối cảm xúc với những người
khác và rất e ngại mạo hiểm thể hiện bất kì điểm yếu nào của mình. Nỗi sợ
hãi của nhà lãnh đạo, tự nó có thể đã thể hiện trong tính kiêu ngạo, ích kỉ, sự
dối trá, sự bất công, không tôn trọng những người khác.
Các nhà lãnh đạo có thể học hỏi để phát triển năng lực của bản thân đối với
các cảm xúc tích cực của tình yêu và sự quan tâm. Hầu hết trong chúng ta đã
từng đôi lần trong cuộc sống nếm trải sức mạnh của tình yêu. Có rất nhiều
kiểu tình yêu khác nhau-ví dụ như tình yêu của một người mẹ đối với đứa
con thơ của mình, tình anh em, hay là tình yêu đất nước cũng như là tình yêu
23
của con người đối với thể thao, các sở thích, cũng như là sự yêu thích theo
đuổi các thú tiêu khiển. Dù cho tình yêu có sức mạnh của nó, song tình yêu
vẫn thường bị ngờ vực trong thế giới kinh doanh. Dù sao chăng nữa, vẫn tồn
tại một số các khía cạnh của tình yêu liên quan trực tiếp đến các mối quan hệ
công việc và thành tích tổ chức.
Tình yêu như là động cơ thúc đẩy bởi tình yêu là thứ tác động bên trong
nhân viên khiến họ cảm thấy mình tồn tại, kết nối, tiếp thêm nghị lực, yêu
cuộc sống và công việc. Nền văn hóa của phương Tây đã chú trọng đặc biệt
đến lý trí và phương pháp lãnh đạo dựa trên lý trí. Tuy nhiên, chính trái tim
chứ không phải là khối óc có sức mạnh phi thường thúc đẩy con người về
phía trước. Bạn thử hình dung lại khi mà bạn muốn làm một vài điều gì đó
với tất cả trái tim của mình, nguồn sinh lực và động cơ thúc đẩy đã dâng trào
trong bạn như thế nào. Và bạn cũng thử nhớ lại giai đoạn mà khối óc của
bạn ra lệnh rằng bạn phải thực hiện nhiệm vụ, nhưng trái tim bạn lại không
mách bảo điều đó. Động cơ thúc đẩy bị giảm bớt, có lẽ là hướng đến sự trì
hoãn. Niềm đam mê ngày càng gia tăng giúp các nhân viên cảm thấy yêu
chân thành công việc của mình hơn. Những nhân viên nào gắn bó với công
việc sẽ cảm thấy thỏa mãn, hữu ích và thành công hơn là thờ ơ với công
việc. Các nhà lãnh đạo tài giỏi nhất là những người yêu những gì họ làm, vì
thế nhiệt tâm và tình cảm nồng nàn của họ đã lan truyền sang những người
khác.
Tình yêu như là tình cả, nó lôi cuốn, quyến rũ và quan tâm ân cần đến con
người, công việc hay những điều khác. Đó là những gì con người thường
nghĩ về tình yêu, đặc biệt là trong mối quan hệ của tình yêu lãng mạn đôi
lứa. Tuy nhiên, tình yêu như là xúc cảm nó cũng liên quan đến các hoàn
cảnh công việc. Sự cảm thông và quan tâm đến những người khác cũng là
một biểu hiện của tình yêu, như là sự tha thứ, sự chân thật, tôn trọng và lòng
trung thành, tất cả chúng đều hết sức quan trọng đối với các mối quan hệ
công việc lành mạnh. “Hạnh phúc” Một thứ cảm xúc cá nhân có sức mạnh kì
bí. Tìm ra được hạnh phúc của chính bạn nghĩa là thực hiện việc gì đó làm
bạn cảm thấy hào hứng, những điều bạn làm mang lại những niềm vui thích
thực sự chứ không chỉ là vì những phần thưởng vật chất. Hầu hết trong
chúng ta đều đã từng trải qua khoảng khắc hạnh phúc khi chúng ta bị lôi
cuốn vào những công việc vui thích mà chúng ta không có đủ thời gian.
Kiểu cảm xúc này và sự quan tâm đến công việc chính là khởi nguồn sự lôi
cuốn của nhà lãnh đạo. Mọi người đều có sức lôi cuốn hơn với những người
khác khi họ thực hiện những công việc mà họ thực sự quan tâm đến.
Tình yêu là hành động nghĩa là còn hơn cả cảm xúc, tình cảm, nó được cụ
thể hóa thành hành động. Stephen Covey đã chỉ ra rằng trong tất cả các kiệt
tác văn chương, tình yêu là một động từ hơn là một danh từ. Tình yêu có
24
nghĩa là bạn làm những điều gì đó và hiến dâng điều đó và dâng tặng bản
thân mình cho những người khác. Cái cảm xúc trắc ẩn, tôn trọng và lòng
trung thành đã được chuyển hóa thành hành động của sự thân thiện, làm việc
nhóm, hợp tác, lắng nghe và phục vụ những người khác. Cảm xúc đòan kết
và hợp tác trong tổ chức của các nhà lãnh đạo đã chuyển hóa thành các hành
động trong việc giúp đỡ, sẻ chia và thấu hiểu. Sự đa cảm nổi bật lên như
hành động.
4.3. Tại sao các nhân viên lại hưởng ứng tình yêu
Hầu hết mọi nhân viên đều mong mỏi rằng: khi đi làm, họ không những
kiếm được tiền mà có thêm niềm vui trong công việc. Các nhà lãnh đạo bằng
tình yêu thì sẽ có những ảnh hưởng phi thường đến người khác bởi vì họ
hiểu được các nhu cầu dù là không nói ra của các nhân viên:
1. Lắng nghe và thấu hiểu tôi
2. Cho dù là bạn không đồng ý với tôi, thì cũng đừng làm tôi trở nên ngớ
ngẩn
3. Thừa nhận tầm quan trọng của tôi
4. Hãy nhớ tìm kiếm những mục đích tốt đẹp của tôi
5. Hãy nói cho tôi sự thật với sự đồng cảm
Khi nhà lãnh đạo xác định đúng các nhu cầu cảm xúc tinh tế này, người
phục tùng sẽ hưởng ứng thông qua tình yêu của họ đối với công việc và có
sự cam kết tình cảm, cố gắng giải quyết vấn đề và phục vụ khách hàng, lòng
tâm huyết trong công việc và đối với tổ chức ngày càng gia tăng. Các nhân
viên đều muốn tin tưởng rằng các nhà lãnh đạo của mình đều quan tâm chân
thành đến mình. Từ những quan điểm của người phục tùng, tình yêu là thứ
chống lại nỗi sợ hãi đã mang lại tiềm năng thúc đẩy khác nhau.
Nếu động cơ thúc đẩy dựa vào nỗi sợ hãi, người ta mong muốn một công
việc thỏa mãn được các nhu cầu cơ bản của họ (các nhu cầu cấp thấp của cơ
thể). Như thế, bạn cho ọ một công việc, và họ cũng sẽ cho lại bạn chỉ vừa đủ
những gì để họ giữ vững được chiếc ghế của mình. Nếu động cơ thúc đẩy là
tình yêu, nhà lãnh đạo khiến người phục tùng cảm nhận được rằng họ thực
sự là một người hữu ích và cho họ thấy được ý nghĩa công việc, cũng như
thừa nhận sự đóng góp của họ vào cộng đồng thật (thỏa mãn các nhu cầu cao
về tình cảm, lý trí và thể chất), thì họ sẽ cống hiến hết những gì họ có.
Tóm tắt
Các nhà lãnh đạo đã sử khả năng trí tuệ cũng như cảm xúc và biết cách để
dẫn dắt tổ chức trong một môi trường đầy những biến động, tiếp thêm sinh
lực cho các nhân viên, thúc đẩy và quan tâm ân cần đến các nhân viên giúp
họ đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng, tính không chắc chắn và tình trạng
25
công việc bấp bênh. Các nhà lãnh đạo có thể mở rộng năng lực tư duy và
tình cảm của mình thông qua sự phát triển và thực tiễn có thể nhận biết
được. Các nhà lãnh đạo nên ý thức được mô hình lãnh đạo tinh thần đã tác
động đến lối tư duy của họ như thế nào và nó có thể gây ra “điểm mù” giới
hạn tầm hiểu biết như thế nào. Bước đầu tiên để nhận thức về mô hình lãnh
đạo tinh thần là hướng cách nhìn nhận thế giới của mình theo những cách
mới mẻ và khác nhau. Bốn yếu tố quan trọng để mở rộng và phát triển trí tuệ
của nhà lãnh đạo là tư duy độc lập, tư tưởng cởi mở và tư duy hệ thống và
ưu thế cá nhân.
Các nhà lãnh đạo cũng cần hiểu được tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc.
Bốn thành phần cấu thành cơ bản của trí tuệ cảm xúc là tính tự giác, tính tự
quản, tính nhận thức xã hội, và quản trị các mối quan hệ. Các nhà lãnh đạo
mà nhạy bén về tình cảm, cảm xúc có thể có những tác động tích cực lên tổ
chức bằng cách giúp đỡ các nhân viên trưởng thành, học hỏi, và phát triển,
xây dựng nên tính mục đích và ý nghĩa, truyền dẫn tinh thần đoàn kết và
đồng đội, và dựa trên mối quan hệ tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, nó tạo cho
các nhân viên ý chí dám mạo hiểm và đóng góp trọn vẹn vào trong tổ chức.
Hầu hết các công việc trong tổ chức đều do các nhóm thực hiện và trí tuệ
cảm xúc được ứng dụng vào trong toàn bộ tổ chức cũng như đối với từng cá
nhân riêng lẻ. Các nhà lãnh đạo có thể phát triển trí tuệ cảm xúc bằng cách
tạo ra những tiêu chuẩn có tác dụng tăng cường thúc đẩy sự đoàn kết nhóm,
xây dựng sự tin cậy giữa các thành viên, truyền một niềm tin đến các thành
viên rằng họ làm việc hiệu quả và thành công trong vai trò nhóm.
Các tổ chức truyền thống tin rằng nỗi sợ hãi là một động cơ thúc đẩy. Trong
khi nỗi sợ hãi không những không thúc đẩy nhân viên, mà còn ngăn cản
nhân viên có cảm nhận tốt về công việc và thường tạo ra thái độ né tránh của
nhân viên. Nỗi sợ hãi còn làm giảm đi sự tin cậy và sự liên lạc chính vì vậy
những vấn đề và những sự kiện quan trọng bị che dấu và bị triệt tiêu. Các
nhà lãnh đạo có thể chọn phong cách lãnh đạo với tình yêu thay thế cho nỗi
sợ hãi. Tình yêu có thể được xem như là một tác động động cơ thúc đẩy
khiến nhân viên cảm thấy họ tồn tại, kết nối với mọi người và tiếp theo sinh
lực cho nhân viên, tình cảm cũng có thể là cảm xúc thích thú, chăm sóc ân
cần và hạnh phúc, tình yêu cũng có thể là cử chỉ, hành động giúp đỡ, lắng
nghe và hợp tác cùng nhau. Các nhân viên hưởng ứng đối với tình yêu bởi vì
nó có thể nắm bắt được những những nhu cầu được tôn trọng và công nhận
bản thân của nhân viên dù họ không hề nói ra. Tư duy có lý trí là rất quan
trọng đối với việc lãnh đạo, nhưng việc lãnh đạo lại dùng tình yêu để xây
dựng sự tin cậy, sáng tạo và lòng nhiệt huyết.
26
CÁC CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bạn cảm thấy thế nào về sự phát triển các yếu tố cảm xúc đặc trưng
của chính bản thân và những người khác trong tổ chức như là một
cách để trở thành nhà lãnh đạo hiệu quả? Thảo luận.
2. Bạn có đồng ý rằng con người có khả năng tiềm tàng để phát triển trí
tuệ và tình cảm vượt ra ngoài kĩ năng hiện tại của họ? Bạn có thể đưa
ra ví dụ minh họa? Thảo luận.
3. Những lý do cụ thể nào khiến cho nhà lãnh đạo cần phải nhận thức về
mô hình lãnh đạo của họ.
4. Thảo luận về những điểm tương đồng và khác biệt giữa mô hình lãnh
đạo tinh thần và tư tưởng phóng khoáng.
5. Khái niệm của ưu thế cá nhân là gì? Tầm quan trọng của nó đối với
nhà lãnh đạo?
6. Theo bạn nghĩ yếu tố nào trong bốn thành phần cấu thành của trí tuệ
cảm xúc là thiết thực nhất đối một nhà lãnh đạo hiệu quả? Tại sao?
7. Đánh giá nỗi sợ hãi và tình yêu như là những động lực thúc đẩy tiềm
năng. Điều nào trong hai cái đó tạo nên động lực thúc đẩy cho các
chiến sĩ trong suốt cuộc chiến tranh? Cho các thành viên của nhóm
phát triển sản phẩm mới? Đối với các nhà quản trị cấp cao tại một
doanh nghiệp đa phương tiện? Tại sao?
8. Bạn đã bao giờ trải qua kiểu lãnh đạo bằng tìnhyêu hay nỗi sợ hãi từ
nhà lãnh đạo tại công sở? Bạn đã hưởng ứng như thế nào?
9. Bạn nghĩ việc các nhà lãnh đạo dành thời gian để phát triển trí tuệ cảm
xúc của nhóm là có thỏa đáng hay không? Tại sao hoặc là tại sao
không?
10. Hãy suy nghĩ về lớp học nơi bạn đang đọc bài này như là một hệ
thống. Việc tạo nên những thay đổi mà không có lối tư duy hệ thống
sẽ gây ra những rắc rối nào cho sinh viên?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- leadership_ch5_lytritcam_100324060305_phpapp01_3441.pdf